Cư sĩ Nguyễn Hữu Kha, pháp danh Thiều Chửu, tên tự là Lạc Khổ, sinh năm
Nhâm Dần (1902), tại làng Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội.
Ông sinh ra trong một gia đình có
truyền thống Nho học nhiều đời, thân sinh là cụ Cử Cầu, một nhà hoạt
động cách mạng lão thành trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông là
người con thứ hai trong bốn anh em: 3 trai, 1 gái.
Từ thuở bé, ông đã được sống với bà
Nội, vốn là một cô Tú văn hay chữ giỏi ở đất Hà Nội và lại là người
Phật tử mộ đạo thuần thành. Do đó, ông đã tiếp cận được nếp sống đạo
hạnh, tập ăn chay từ năm lên 8 tuổi, và cũng nhờ bà Nội chỉ dạy cặn kẽ
về Nho học, nên ông đã sớm tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh. Được thừa hưởng
vốn liếng căn bản quan trọng ấy, khi vào độ tuổi thiếu niên ông được
học chữ Quốc ngữ, đồng thời tự nghiên cứu thông thạo các ngoại ngữ Anh,
Pháp, Hoa và Nhật. Nhờ thiên tư sẵn có, ông dễ dàng bước vào lãnh vực
nghiên cứu giáo lý Phật Đà, và thấm nhuần sâu sắc, nhanh chóng.
Năm Tân Dậu (1921), lúc ông 20 tuổi,
đã bắt đầu dạy Nho học giúp cho Tăng đồ quanh vùng, nên có điều kiện
trao đổi, tìm hiểu thêm trong việc nghiên cứu giáo lý. Từ đó, nhận thấy
mình có túc duyên với Phật pháp, và với khả năng tri thức của mình, ông
sẵn sàng hộ pháp. Bằng tâm nguyện và tư thế một người cư sĩ, ông đảm
nhận phụ giảng cho Tăng Ni và công tác từ thiện xã hội.
Tâm nguyện cao đẹp đó, được ông thể
hiện qua nếp sống giản dị, đạm bạc. Ông bắt đầu trường chay và mỗi ngày
chỉ ăn một bữa; y phục đơn giản như những người chân quê. Ông rất quí
thời giờ nên công việc được phân chia thời khóa rành mạch, phần lớn là
dịch kinh, viết sách, tu học và dành rất nhiều thời giờ để gần gũi và
chăm sóc các trẻ em mồ côi.
Để tạo thêm điều kiện thuận lợi trong
việc góp phần tuyên dương Phật pháp. Ban đầu, ông lập nhà bán sách lấy
hiệu là Hòa Ký ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Khi phong trào chấn hưng Phật
Giáo ở Bắc Kỳ được khởi xướng, Ông cùng các đạo hữu cư sĩ cùng thời như
Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đỗ Mục,
Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Vĩnh, Dương Bá Trạc v.v... là những nhà trí
thức tiên tiến, được chư vị Tăng giới như Ngài Trí Hải, Tố Liên mời
đồng đứng ra thành lập Hội Bắc Kỳ Phật Giáo vào năm Giáp Tuất (1934).
Hội ban đầu do Hòa thượng Thích Thanh Hanh làm Thiền Gia Pháp Chủ.
Năm Ất Hợi (1935), hoạt động nổi bật
nhất của Hội Phật Giáo Bắc kỳ là việc cho ra đời tạp chí Đuốc Tuệ.
Trong đó ông là một cây bút đắc lực và bền bỉ nhất, phát huy được vai
trò Phật học trên từng trang báo, góp phần cổ xúy cho phong trào chấn
hưng Phật giáo. Báo Đuốc Tuệ do ông quản lý trực tiếp, đặt trụ sở tại
chùa Quán Sứ - Hà Nội.
Có thể nói, thời gian Đuốc Tuệ tồn tại
trên văn đàn là do ông điều hành, đã nêu bật tính tích cực và tầm vóc
của một tạp chí Phật giáo lớn thời bấy giờ nơi đất Bắc. Song song với
công việc báo chí, ông còn là tác giả của bộ Hán Việt Tự điển, đương
thời đã được sử dụng rộng rãi trong cả nước.
Năm 1941, nhằm phát triển công tác
giáo dục và từ thiện xã hội, Hòa thượng Trí Hải đã ủy thác cho ông lập
trường Phổ Quang và nghĩa trang Tế Độ, cả hai cơ sở này đặt tại ngoại
thành Hà Nội. Ông tận tình trông nom và ra sức dạy học. Lớp học có các
Tăng Ni theo học, ngoài việc dạy chương trình thế học, Nho học, ông còn
kiêm giảng dạy Phật học cho Tăng Ni. Từ những lớp Phật học đầu tiên, có
những vị đã trở thành danh Tăng sau này như Hòa thượng Tâm Tịch, Hòa
thượng Thanh Kiểm..., bên Ni như Ni sư Đàm Tuệ, Ni sư Đàm Ánh...
Năm 1945, nạn đói xảy ra ở miền Bắc.
Thể hiện lòng từ bi, ông cùng với các Hòa thượng Tố Liên, Trí Hải đứng
ra thành lập Tổng hội Cứu tế, đặt tại chùa Quán Sứ để giúp những người
đói khổ, và dựng nên một Cô nhi viện, nuôi dạy hơn 200 trẻ mồ côi. Cuối
năm 1946, chiến tranh lại bùng nổ, các Phật sự phải đình chỉ và số phận
các cô nhi bấp bênh. Một nửa các em được đưa về chùa Mai Xá tự túc sinh
sống. Một nửa còn lại, ông mang theo lên Phúc Yên làm thủ công và trồng
khoai sắn vừa sinh sống vừa học tập.
Thời gian ông nhận công tác từ thiện
dạy dỗ chăm lo các trẻ cô nhi, cũng là nhân duyên ông dịch kinh và sáng
tác nhiều bài hát để dạy các em Cô nhi và truyền bá cho dân chúng như:
Tấm lòng vị tha, Người chân tu, Lấp biển trầm luân, Khuyên tu... và một
số bài có nội dung giáo dục thiếu nhi như: Đánh đu... ước tính có đến
15 bài Phật Ca do ông sáng tác lưu truyền lúc bấy giờ.
Năm Mậu Tý 1948, ông còn mở thêm lớp
học bình dân cho người nghèo ở Cao Phong - Phúc Yên, quy tụ trên 100
học viên đến học thường xuyên, ông hướng dẫn các em mồ côi lớp trước
chăm nom trở lại người lớp học sau.
Năm Kỷ Sửu 1949, chiến tranh vẫn diễn
ra khốc liệt, dân chúng phải sơ tán khắp nơi. Ông phải đưa lớp học đi
sơ tán qua những vùng khác nhau như: Đan Thầm, Đồng Quan, Sơn Tây, Phúc
Yên, Thái Nguyên... rất vất vả khó khăn, có khi chỉ ăn toàn cháo sắn
(khoai mì) suốt tháng. Tuy trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, đi đến đâu
ông cũng cùng học trò xây dựng trường học, cất nhà cho người nghèo và
kiên định giữ đúng thời khóa của bản thân. Vẫn ăn ngày một bữa, đêm
thức dịch kinh, chỉ ngủ 3 giờ đồng hồ, 2 giờ sáng thức dậy ngồi thiền,
trì chú, rồi tập thể dục, uống trà và đôi phút ngâm thơ... Ông nghiêm
khắc với bản thân cho nên với đồ chúng ông cũng tạo được sự nghiêm minh
triệt để, kỷ luật gắt gao khi có sai phạm. Riêng đối với Tăng Ni, tuy
là học trò của ông, nhưng ông luôn kính lễ, sách tấn họ tu học và tận
tâm chỉ dạy sở học của mình cho họ.
Cư sĩ Nguyễn Hữu Kha còn là một người
yêu nước triệt để. Khi Pháp trở lại chiếm Hà Nội, ông dứt khoát không
chịu sống ở những vùng nào mà đã rơi vào tay người Pháp. Vì thế ông đã
dẫn dắt học trò của mình lên tận Phúc Yên, nơi vẫn thuộc quyền quản lý
của cách mạng. Năm 1945, lúc Cách Mạng thành công, Hồ Chủ Tịch đã mời
ông ra làm Bộ trưởng Bộ Giáo Dục, nhưng ông từ chối, để tiếp tục việc
giảng dạy cho các lớp Phật giáo, cùng Cô nhi, để theo con đường tu trì
lợi tha mà mình đã chọn.
Năm 1951, nghe biết ông gặp nhiều khó
khăn ở Phúc Yên, Hòa thượng Tố Liên có cho người đem giúp ông 6 lượng
vàng. Ông dứt khoát từ chối không nhận trợ giúp nào từ nơi vùng bị
chiếm đóng. Do những phong cách chuẩn mực đó, mà đi đến đâu, ông cũng
được người xuất gia, tại gia và dân chúng quí trọng, yêu mến, xem ông
như một bậc thầy, một Cư sĩ có đạo hạnh khả kính. Năm 1954, Hiệp định
Genève được ký kết, miền Bắc tiến hành phong trào cải cách ruộng đất,
cải tạo tư sản địa chủ. Nhận thấy những đau khổ của không ít nông dân
bị hàm oan, ông rất đau buồn, cộng vào sự kiện có lời vu cáo ông về mặt
uy tín, và thuộc tầng lớp trí thức tư sản. Để chứng minh cho sự trong
sáng và thanh bạch của mình, ông đã viết bốn bức tâm thư, ba bức gởi
cho chính quyền trình bày nỗi lòng của ông với ý kiến đóng góp những
điều nên làm và nên tránh để lợi nước ích dân. Một bức thư còn lại, ông
gởi cho các học trò của mình, dặn dò cố gắng tu hành, học tập để giáo
hóa đời mà đừng để bị đời hóa.
Ngày 15.7.1954, tức ngày 16.6 năm Giáp
Ngọ, sau khi từ biệt học trò, lễ tạ bốn phương, ông đã kết thúc đời
mình tại sông Đuống, thuộc Đồng Mỹ - Thái Nguyên, để cúng dường Tam Bảo
tấm lòng trong sáng thanh tịnh của mình, và để giữ toàn khí tiết một
nhà Nho, một người yêu nước chân chính, một cư sĩ hoàn thành nhiệm vụ
giáo hóa cho đạo và đời. Ông mất năm 52 tuổi với 30 năm công quả cống
hiến cho sự nghiệp đạo pháp.
Trong sự nghiệp phiên dịch và trước
tác, ông đã để lại cho hậu thế một di sản tác phẩm quí báu. Tăng Ni
Phật tử đều trân trọng sự thâm nhập giác ngộ cao của ông qua các kinh
sách được tiếp tục lưu truyền:
-
Phật học cương yếu.
-
Khóa Hư Kinh diễn giải.
-
Sự Tích Phật Tổ diễn ca.
-
Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính.
-
Con đường học Phật thế kỷ XX này.
-
Nhòm qua cửa Phật.
-
Cải tà qui chính.
-
Thế nào là Phật và Phật pháp.
-
Lục Tổ Đàn Kinh.
-
Khóa tụng hằng ngày.
-
Bốn mươi tám phép niệm Phật.
-
Vì sao tôi tin Phật Giáo (dịch của B. Brongthon).
-
Kinh lễ sáu phương (dịch).
-
Kinh Di Giáo (dịch).
-
Kinh Di Đà (dịch).
-
Kinh Tứ Thập Nhị Chương (dịch). ....
...
Cư sĩ Thiều Chửu - Nguyễn Hữu Kha là
một Phật tử xứng đáng tiêu biểu cho hàng Cư sĩ trong tứ chúng môn đồ
của Phật. Bàn tay đóng góp của người ghi đậm trong lịch sử chấn hưng
Phật giáo miền Bắc Việt Nam. Và hơn nữa, xứng đáng là gương mẫu tiêu
biểu cho sự trọng thị một nhân cách khiêm ái từ hòa của người con Phật.