A. DẪN NHẬP
Khi những làn sóng phát triển tột đỉnh của nền văn minh
khoa học kỹ thuật hiện đại ngày càng phát triển, sự đòi hỏi về trí thức
và nhu cầu sống của con người ngày càng trở nên gia tăng; đặc biệt là
giới trẻ thanh thiếu niên ngày nay. Chính vì vậy, họ luôn phải đấu tranh
và đối diện với nhiều tình huống khó khăn trong cuộc sống hầu tìm cho
mình một hướng đi đầy khát vọng để đạt được mục đích và giá trị sống
xứng đáng trong xã hội, nhất là trong thời kỳ hội nhập cộng đồng quốc tế
hiện nay. Nếu không có sự tu tập nội tâm và thấu triệt đúng đắn trước
những làn sóng văn minh ấy, những trái tim nhiệt huyết và khát vọng ấy
sẽ bị mất phương hướng trước bùng binh của cuộc đời. Ngài P.A. Payutto,
một học giả nổi tiếng, đã tuyên bố dõng dạc rằng sự phát minh khoa học
kỹ thuật như những công cụ để mưu cầu mục đích khát vọng hơn là sự phát
triển nội tâm con người, và rằng con người ở thế kỷ 20 gây ra nhiều hành
vi nguy hại làm ảnh hưởng đến bản chất con người của thế kỷ 21 sẽ phải
đối phó.[1]
Trước những tình huống hiện nay, làm thế nào để bảo dưỡng những
trái tim đầy nhiệt tâm ấy không bị nguội lạnh và chuyển máu? Và làm thế
nào để giáo dục và định hướng cho thanh thiếu niên Phật tử có tư tưởng
đúng đắn trên con đường học tập và truy tìm mục đích sống của mình trong
thời kỳ hội nhập? Đề tài "Phương Thức Giáo Dục Tuổi Trẻ Phật Giáo trong Thời Hội Nhập” sẽ mở ra một chân trời mới trợ giúp cho thanh thiếu niên luôn có một trái tim tươi đỏ, thấm đượm những giá trị: 'Tài, Đức và Trí' của một người hoàn thiện.
B. NỘI DUNG
1. GIẢI THÍCH ĐỀ TÀI
- ‘Phương thức’ hay còn gọi là “phương pháp; cách thức; đường lối; .v..v.” Trong tiếng Anh, nó thường được dùng từ ‘method’ [2] hoặc ‘way.’ [3]
- ‘Giáo dục’ là sự huấn luyện và giảng dạy nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng phát triển, nó được dịch từ tiếng Anh là ‘education’ [4]
- “Tuổi trẻ” trong tiếng Anh được dịch là ‘Youth’[5],
tức là chỉ cho những lớp thanh niên, hay lứa tuổi thanh niên tràn đầy
tuổi xuân, và sức sống; là những người luôn tràn đầy nhiệt huyết và có ý
chí mạnh mẽ tiến thẳng về tương lai để đạt được những ước mơ và hoài
bảo của mình.
- “Phật giáo” là một danh từ đóng vai trò là một tính từ trong đề tài này với nghĩa ‘thuộc về Phật giáo’ bổ nghĩa cho danh từ ‘Tuổi trẻ’. Từ tiếng Anh của nó là ‘Buddhist’[6]; nghĩa là người Phật tử mộ đạo; người đệ tử tín tâm của đức Phật.
- “Tuổi trẻ Phật giáo” chỉ cho những đối tượng thanh thiếu
niên, hay lứa tuổi thanh niên tràn đầy tuổi xuân, và sức sống; là những
người luôn tràn đầy nhiệt huyết và có ý chí mạnh mẽ tiến thẳng về tương
lai, và luôn dựa trên sự tu tập nội tâm làm nền tảng cho việc truy tìm
mục đích khát vọng của mình.
- “Thời kỳ hội nhập” là chỉ cho thời kỳ của một đất nước đã
và đang trên đà phát triển, luôn cách tân về mọi mặt để hòa nhập với
cộng đồng quốc tế hiện nay.
Đề tài "Phương Thức Giáo Dục Tuổi Trẻ Phật Giáo trong Thời Hội Nhập” muốn
nhấn mạnh về phương pháp giáo dục tâm lý của các bậc sư trưởng, cha mẹ
và thầy cô đối với thanh thiếu niên học sinh, sinh viên trên con đường
truy tìm giá trị đích thực của cuộc sống trong thời kỳ hội nhập hiện
nay.
2. PHƯƠNG THỨC GIÁO DỤC
a. Giáo dục tâm lý
Sống trong thời hội nhập thương trường quốc tế hiện nay, một
thời kỳ buột con người cần phải thay đổi, phải cải cách và phải tuân
thủ theo những yêu cầu của cuộc sống đầy phiền phức, bận rộn và căng
thẳng. Tuy nhiên, thời hội nhập cũng chính là một cơ hội tốt cho tuổi
trẻ thanh niên (nói chung) và tuổi trẻ Phật giáo (nói riêng) có đủ những
điều kiện thuận lợi về mọi mặt cả vật chất lẫn tinh thần, để phát huy
kiến thức, sở trường và tiềm năng của chính mình. Thế nhưng, những điều
kiện thuận lợi ấy đôi khi sẽ là liều thuốc bổ dưỡng trợ lực cho họ thành
đạt công danh và phát triển nhân cách, và ngược lại, nó sẽ là liều
thuốc độc hại làm cho giới trẻ thất bại công danh và ô nhiễm nhân cách.
Nó giống như một luồng gió thổi qua có thể làm cho người khỏe mạnh cảm
thấy dễ chịu hoặc người yếu ớt trở nên bệnh tật. Vì thế, những nhà giáo
dục, các bậc cha mẹ, sư trưởng, v..v, cần sử dụng phương thức giáo dục
tâm lý nhằm hướng dẫn cho các bạn trẻ nhận thức đúng đắn về vai trò và
trách nhiệm của mình để phát huy mạnh mẽ về các phương diện: học tập, sự
nghiệp, tư tưởng, kiến thức và kinh nghiệm sống, .v..v.; trau dồi và
phát huy tích cực về mọi mặt trong cuộc sống để hoàn thành tốt vai trò
và trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã hội và bản thân. Muốn đi
đến thành công về mặt giáo dục tâm lý đối với giới trẻ ngày nay, các nhà
giáo dục cần nên:
a.Cải cách quan điểm sống cổ hữu của mình, có tư tưởng phóng khoáng,
một tâm hồn mở rộng và thông cảm để lắng nghe những suy nghĩ và khát
vọng của giới trẻ.
- Góp ý, chỉ dạy, hướng dẫn và giáo dục, .v..v, đúng tiềm năng, sở
trường hoặc sở đoản của các bạn trẻ; không theo suy nghĩ riêng của mình
để ép buột giới trẻ.
c.Thực hiện tốt tinh thần “tùy duyên bất biến” của Phật giáo
trong các vai trò là cha mẹ; là bạn bè; là người đồng hành; là huynh
đệ; .v..v. với các bạn trẻ theo từng hoàn cảnh và tình huống nhằm chia
sẻ, động viên, góp ý cho giới trẻ mỗi khi các bạn cần sự giúp đỡ, quan
tâm, góp ý và chia sẻ của chúng ta.
- Luôn tôn trọng những quyết định của các bạn trẻ; ủng hộ cho giới trẻ thực hiện những gì họ thích trong một tư tưởng đúng đắn.
e.Tôn trọng những chuyện riêng tư của giới trẻ, nhất là chuyện tình
cảm; nên ủng hộ quan điểm rồi hướng dẫn họ là thượng sách, thay vì ngăn
cấm để dạy bảo và góp ý.
- Hãy giáo dục và góp ý cho các bạn trẻ những gì họ đang muốn biết; hãy cho và ủng hộ các bạn trẻ những gì họ đang cần.
Có như vậy, những nhà giáo dục, các bậc cha mẹ và sư trưởng, .v..v.
mới có thể thành công trong lãnh vực giáo dục tâm lý đối với giới trẻ
thanh thiếu niên thời nay.[7]
b. Giáo dục Phật giáo
Giáo dục Phật giáo là phương pháp giáo dục nhằm phát triển
nhân cách đạo đức của con người hướng đến đời sống chơn thiện mỹ. Đó
chính là sự tu dưỡng về nội tâm qua phương pháp thực hành Tam Vô Lậu Học
(Giới- Định và Tuệ), là ba nhân tố hỗ tương qua lại và phát triển việc
tu tập đạo đức cá nhân. Điều quan trọng nhất là khi tu tập Tam Vô Lậu
Học, các hành giả thanh thiếu niên cần phải dựa trên tinh thần vô ngã,
vô chấp, uyển chuyển, năng động; đồng thời phải thấu triệt đúng đắn về
Pháp và Luật của đức Phật như là chiếc bè phương tiện đưa người qua sông
mê bể khổ. Để nhấn mạnh về quan điểm này, đức Phật tuyên bố rõ ràng
trong kinh Trung Bộ rằng: “Cũng vậy, này chư Tỳ kheo, Ta thuyết pháp
như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỳ kheo,
các Ông cần hiểu ví dụ cái bè… Chánh pháp còn bỏ đi, huống nữa là phi
pháp.”[8]
- Sự tu tập về Giới (P: Sīla, Skt: Śīla)
Giới (Sīla) là sự hướng dẫn về tư cách đạo đức (guide for behavior)[9]; hoặc phép tắc để hành xử (rule for action);[10] hay có nghĩa khác là lời dạy, mệnh lệnh, sự ngăn cấm, quy luật,…v..v..(precept, command, prohibition, dicipline, ect.)[11]. Về phương diện đạo đức, Giới (Sīla) có nghĩa là: giới hạnh (Virtue) như B. Buddhaghosa đã định nghĩa[12].
Đặc biệt, về phương diện tu tập, “Giới” là từ ngữ của
Pàli được hiểu theo nhiều nghĩa như: việc thực hành đạo đức; đức tính
tốt; đạo đức Phật giáo; và điều lệ về đạo đức (moral practice, good character, Buddhist ethic, and code of morality)[13]. Trong Từ Điển Sanskrit-Anh, Giới (Śīla) được
giải thích là phong cách cư xử theo đạo đức, là một trong 6 hoặc 10
pháp Ba-la-mật; hoặc được giải thích là giới điều về đạo đức[14].
Như trên đã đề cập, giới của Phật giáo luôn dựa trên đạo đức và lòng
từ. Sự tuân thủ giới là nhằm vào sự tu tập ý thức đạo đức cá nhân hầu
làm cho con người thoát khỏi mọi khổ đau ở đời. Vì thế, đức Phật đã sử
dụng nhiều phương tiện thiện xảo bằng cách tạm thiết lập các giới điều
cho các đệ tử thực hành hầu mang lại sự an lạc và hạnh phúc cho con
người. Nếu con người đã hoàn toàn thuần thục nhân cách và nội tâm không
còn những phiền não (tham, sân, si), sự tu tập giới sẽ không còn hữu
dụng. Do vậy, sự tu tập giới cần được uyển chuyển, tích cực và sáng tạo
trong tinh thần “tùy duyên bất biến” ở mọi tình huống và thời đại; nhất
là trong thời hội nhập cộng đồng quốc tế ngày nay. Vì sao? Như chúng ta
biết, là một con người dĩ nhiên đều được nuôi dưỡng bởi hai loại thức
ăn: (1) thức ăn vật chất bao gồm: gạo, sữa, rau, đậu, mì, bắp… để nuôi
dưỡng thân vật chất, và (2) thức ăn tinh thần bao gồm những lạc thú thế
gian như: ca hát, thể thao, bơi lội, đá banh, tình yêu, … để thỏa mãn
nhu cầu cho con người về mặt tinh thần. Điều quan trọng là khi tiếp nhận
những thức ăn đó, chúng ta có thấu triệt hoàn toàn về những kết quả tốt
hay xấu từ hành vi của chúng ta hay không? Có nghĩa là chúng ta nên
hiểu đúng đắn làm thế nào để tiếp nhận hai loại thức ăn này mà không có
sự bội thực, không đưa đến kết quả tồi tệ, và không có sự cấu uế hay bất
tịnh trong thâm tâm của mình. Giống như một người đang khát nước trên
đường đi, vị ấy tìm kiếm nước uống, sau khi uống xong, vị ấy hết khát và
tiếp tục đi thẳng trên con đường mình đang đi mà không có sự luyến tiếc
hay say đắm vì nước, không có sự ràng buột và cấu uế trong thâm tâm.
Bằng việc làm như thế, vị ấy đã thực hành giới đúng đắn, thích hợp và
năng động. Đó gọi là sự tu tập Giới theo phương pháp uyển chuyển, thích
hợp và chuẩn mực.
- Sự tu tập Định (P; Skt: Samàdhi)
Định là một trạng thái chăm chú, bình tĩnh và tập trung của
tâm và định mà nó đi kèm với lối sống thiện là điều kiện cần thiết để
đạt được trí tuệ và giải thoát.[15] Hay cách nói khác, nó là sự nhất
tâm, là sự tập trung của tâm về một đối tượng để loại trừ toàn bộ tất cả
những cái khác.[16]
Trong bối cảnh ngày nay, tuổi trẻ thanh thiêu niên cần thấu
triệt rằng sự tu tập thiền định không có nghĩa là ngồi im bất động trong
khi thiền, mà phải được biểu lộ qua những công việc và lối sống hàng
ngày để thích nghi với những tình huống xã hội hiện nay. Có nghĩa là vị
ấy tu tập thiền định bằng cách luôn duy trì trạng thái tỉnh giác trong
khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, ăn uống, ngủ nghĩ, lái xe, học tập, tắm
rữa, đọc sách, … Nói chung, tất cả những công việc và sự tu tập hàng
ngày được dẫn dắt bởi chánh niệm và tỉnh giác. Từ quan điểm trên, chúng
ta có thể suy luận rằng khi một hành giả đang làm việc trong bất kỳ hoàn
cảnh nào, vị ấy luôn chú tâm tỉnh giác, có ý thức và trách nhiệm trong
công việc, không có sự sao lãng và thờ ơ và luôn cẩn thận khi làm việc, …
hành động như thế được gọi là thiền trong khi làm việc. Cũng vậy, những
công việc hàng ngày khác cũng tương tự như thế đều gọi là sự tu tập
Định. Đây chính là ý nghĩa tu tập Định của Phật giáo một cách tích cực
và năng động trong thời đại mới ngày nay.
- Sự tu tập Tuệ (P: Pañña; Skt: Prajña)
Tuệ là sự hiểu biết, sự nhận thức đúng đắn, sự nhận ra, cách
phán xét, sự thấu triệt, sự hiểu biết về trực giác, …[17] Trong các bộ
kinh thuộc truyền thống Nikāya, chúng ta có thể nhận thấy lời dạy của
đức Phật về Prajđa hay Pañña (Pāli) rằng vị nào nhận biết như thật về sự
tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu chỗ
xuất xứ, vị ấy sẽ có một sự hiểu biết vượt ngoài những điều trên.[18]
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, tuổi trẻ thanh thiếu niên
Phật giáo cần được tu tập trí tuệ bằng cách thực hành chánh kiến và
chánh tư duy. Có nghĩa rằng vị ấy trước hết cần thấu triệt hoàn toàn lời
dạy của đức Phật bao gồm kinh, luật và luận để ứng dụng đúng đắn vào sự
tu tập nội tâm; thấu suốt triệt để về: ‘lý Nhơn Quả’ đưa đến kết quả
thiện ác từ hành động, ‘lý Duyên Khởi’ bắt nguồn từ vô minh và tham dục
của toàn bộ khổ uẩn, và đối với ‘Tứ đế’ cũng như ‘Bát Chánh đạo’ đưa
đến sự đoạn diệt hoàn toàn các khổ uẩn, đạt đến Niết bàn và giải thoát.
Đó được gọi là sự tu tập Tuệ với nghĩa đúng đắn và thích hợp.
Nói chung, trong mối liên hệ mật thiết về Tam Vô Lậu Học, chúng
ta có thể nhận thấy rằng Giới - Định - Tuệ được phối hợp chặt chẽ và tác
động hỗ tương vói nhau trên tiến trình tu tập giải thoái giác ngộ.
Chính vì vậy, đức Phật đã khẳng định quan điểm này trong Kinh Trường Bộ
rằng:
Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa
đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn,
lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các
món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.[19]
Từ ý nghĩa trên, chúng ta có thể khẳng định mạnh mẽ rằng
Giới-Định-Tuệ được xem như kiềng ba chân. Vì nếu thiếu một trong ba thì
nó không thể đứng vững vàng trên mặt đất được. Sự tu tập Tam Vô lậu cũng
vậy. Nếu sự tuân thủ Giới mà không có sự hiện hữu của Định và Tuệ, nó
trở thành sự tuân thủ giới một cách cố chấp. Có nghĩa là xuyên tạc những
lời răn dạy không chính thống. Và sự tuân thủ Định và Tuệ cũng như
vậy.[20]
C. KẾT LUẬN
Nhìn chung, tuổi trẻ thanh thiếu niên Phật giáo là những mầm
non tương lai trong khu rừng đầy giá trị của sự sống; là mùa xuân của
sự phát triển tiềm năng; là những đóa hoa tươi đang khoe sắc trong vườn
hoa anh tài; là nhân tố tích cực và quan trọng trong vai trò góp phần
xây dựng ngôi nhà Phật giáo nói riêng và đất nước nói chung mãi mãi
trường tồn và phát triển. Vì vậy, phương thức giáo dục thanh thiếu niên
Phật giáo ngày nay cần được áp dụng hoàn thiện qua 2 phương pháp, đó là:
phương pháp giáo dục tâm lý và giáo dục Phật giáo. Có như vậy, tuổi trẻ
thanh thiếu niên Phật giáo mới có thể phát huy mạnh mẽ về tài năng,
kiến thức, nhân cách, đạo đức và tiềm năng vốn có của chính mình nhằm
hướng đến sự hoàn thiện về 3 phương diện ‘Tài, Đức và Trí.’ Đó
chính là kiềng 3 chân vững chắc cho tuổi trẻ Phật giáo để trang bị đầy
đủ những yếu tố sau đây trước khi hội nhập cuộc đời: Thứ nhất chính là
sự kiên nhẫn vượt khó; sẵn sàng lắng nghe và học tập những kinh nghiệm
quý báu về cuộc sống và cách ứng xử giao tế trong xã hội từ những người
đi trước; luôn phát huy ý chí, nghị lực và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ
để phát triển tiềm năng của chính mình; v.v... Thứ hai chính là sự
thành đạt lãnh vực học vấn, cập nhật mọi kiến thức liên quan đến công
việc và cuộc sống ở nhiều lãnh vực; v.v... Thứ ba là siêng năng phát
triển nhân cách đạo đức bằng sự tu tập nội tâm qua phương pháp Tam Vô
Lậu Học của Phật giáo. Có như vậy, tuổi trẻ thanh thiếu niên Phật giáo
mới có thể thành đạt, phát triển và đứng vững trên đấu trường quốc tế về
mọi phương diện khi truy tìm giá trị đích thực cuộc sống trong thời hội
nhập ngày nay.
THƯ MỤC
I. KINH (Anh & Việt)
Dialogues of the Buddha, F. Max
Muller, (ed.) & T.W. Rhys Davids (trans.), Vol. I (1995); W. &
C. A. F Rhys Davids (trans.), T. W. Rhys Davids (ed), Vol. II (1995),
Oxford: PTS.
The Middle Length Sayings, I.B. Horner, (trans.), Vol. II (1997), Oxford: PTS.
The Book of the Gradual Sayings, F. L. Woodward (trans.), Vol. I (2000), Oxford: PTS.
Kinh Trường Bộ, Thích Minh Châu (dịch), quyển I & II, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1991.
Kinh Trung Bộ, Thích Minh Châu (dịch), quyển I (1992), TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.
Kinh Tăng Chi Bộ, Thích Minh Châu (dịch), quyển I, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1992.
II. SÁCH
Roscoe, G., The Triple Gem: An Introduction to Buddhism, Chiang Mai, Thailand: Silkworm Books, 1994.
Bapat, P.V. (ed.), 2500 Years of Buddhism, Delhi: Publication Division, 1997.
H.H. Dalai Lama (au.) &
Ramanan, R. (compiler), The Heart of Compassion, Delhi: Full Circle Publishing, 2001.
Fowler, M., Buddhism: Beliefs and Practices, Brighton & Portland: Sussex Academic Press, 1999.
Saddhatissa, H., Buddhist Ethics, Boston: Wisdom Publications, 1997.
Piyadassi, M., The Spectrum of Buddhism: Writings of Piyadassi, Colombo: Printers & Publishers Karunaratne & Sons Ltd., 1991.
Rahula, W., What the Buddha Taught, Sri Lanka: Buddhist Cultural Centre, 1996.
Dhar, S., Transformation and Trend of Buddhism in the 20th Century, Calcutta: Firma KLM Pvt. Ltd, 1986.
Dutt, N., Early Monastic Buddhism, Calcutta: Firma KLM Private LTD., 1981.
Williams, P., Buddhist Thought: A Complete Introduction to the Indian Tradition, London & New York: Routlege, 2000.
Gethin, R., The Foundation of Buddhism, Oxford & New York: Oxford University Press, 1998.
Nārada, M., The Buddha and His Teachings, Kandy, Sri-Lanka: Buddhist Publication Society, 1997.
Thích, Nhất Hạnh, The Heart of the Buddha's Teaching, New York: Broadway Books, 1998.
Lamotte, E. (author) &
Sara Webb-Boin (trans.), History of Indian Buddhism, Louvain-le-Neuve: Institute Orientaliste de I'Universite' Catholique de Louvain, 1988.
Buddhaghosa, B., (author) &
B. Buddhaghosa (tác giả) &
Bhikkhu Nanamoli (dịch), The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), Sri lanka: Buddhist Publication Society, 1979 & 1991.
H.H. The Dalai Lama, The Way to Freedom, Dharmshala: The Library of Tibet, 2000.
Santina, P.D., The Tree of Enlightenment, Taiwan: The Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999.
Barua, D.K., An Analytical Study of Four Nikayas, Delhi: Munshiram Manohalal Publishers Pvt. Ltd., 2003.
Kyabgon, T., The Essence of
Buddhism: An Introduction to Its Philosophy and Practice, Boston &
London: Shambhala Publications, Inc., 2001.
Rinchen, G.S., (author) &
Sonam, R., (trans. & ed.), The Six Perfections, Ithaca, New York: Snow Lion Publications, 1998.
Fowler, M., Buddhism: Beliefs and Practices, Brighton & Portland: Sussex Academic Press, 1999.
Malik, Inder L., Dalai Lamas of Tibet, New Delhi: Computer Prints Combine, 1984.
III. BÁCH KHOA & TỪ ĐIỂN
Crowther, J. (biên tập), Advanced Learner's Encyclopedic Dictionary, Oxford: Oxford University Press, 1992.
Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Từ Điển Anh- Anh Việt, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 1999.
Weeraratne, W. G., (ed.) The Encyclopaedia of Buddhism, Vol. V, Sri Lanka: The Department of Buddhist Affairs, Ministry of Buddhasasana, 2000.
Stede, W., Pali-English Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1997.
Williams, M. M., Sanskrit-Enghlish Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1999.
Eliade, M., (ed.), The Encyclopaedia of Religion, Vol. 11, New York: Macmillan Publishing Company, 1987.
Cowie, A. P (biên tập), Oxford Advanced Learner’s Dictionary, London: Oxford University Press, 1992.
Procter, P. (Tổng biên tập), Cambridge International Dictionary of English, London: Cambridge University Press, 1995.
Soothill, W. E. &
Hodous, L. (biên soạn), A Dictionary of Chinese Buddhist Terms, Delhi: Motilal Banarsidass, 1997: 239.
[1] P. A. Payutto, Buddhist Solutions for the 21st Century (Các Giải Pháp của Phật Giáo đối với Thế Kỷ 21), đọc tại Nghị Viện Tôn Giáo Thế Giới ở Chicago, 1994, có giá trị tại trang Web: ww.buddhismtoday.com/index/sociology.htm.
[2] Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Từ Điển Anh- Anh Việt, Hà
Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 1999, trang 1271f; J. Crowther
(biên tập), Advanced Learner's Encyclopedic Dictionary, Oxford: Oxford
University Press, 1992, trang 564.
[3] Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 1318ff; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 1023f.
[4] Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 651f; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 284.
[5] Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 2398; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 1056.
[6] Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 260; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 115.
[7] Xem thêm: cách giáo dục và cư xử giữa ‘cha mẹ với con
cái’; ‘thầy với trò’; và ‘bạn bè với nhau’, trong T. W. & C. A. F.
Rhys Davids (dịch), Sacred Book of the Buddhists: Dialogues of the Buddha (Thánh Kinh Phật Giáo: Trường Bộ kinh), quyển IV, phần III, trang 180f và trang 181; Thích Minh Châu, Kinh Trường Bộ, quyển II, TPHCM: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, trang 541f và trang 542f.
[8] Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ, quyển I, 1992: 307f; I. B. Horner (dịch), The Middle Length Sayings (Kinh Trung Bộ), quyển I, 2000: 173f. Xem thêm ‘Ví dụ chiếc bè’ trong Mahathera Piyadassi, Sđd., 1991: 225f; P. Williams, Buddhist
Thought: A Complete Introduction to the Indian Tradition (Tư Tưởng Phật
Giáo: Sự Giới Thiệu Hoàn Chỉnh về Truyền Thống Ấn Độ), London & New York: Routlege, 2000: 38ff; R. Gethin, The Foundations of Buddhism (Các Nền Tảng Phật Giáo), Oxford & New York: Oxford University Press, 1998: 71f.
[9] A. P. Cowie (biên tập), Oxford Advanced Learner’s Dictionary (Từ Điển Oxford Nâng Cao), London: Oxford University Press, 1992: 704.
[10] Paul Procter (Tổng biên tập), Cambridge International Dictionary of English (Từ điển Anh ngữ Quốc tế Cambridge), London: Cambridge University Press, 1995: 1109.
[11] William Edward Soothill and Lewis Hodous (biên soạn), A Dictionary of Chinese Buddhist Terms (Từ điển Thuật Ngữ Phật Giáo Trung Quốc), Delhi: Motilal Banarsidass, 1997: 239.
[12] B. Buddhaghosa (tác giả) & Bhikkhu Nanamoli (dịch), The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), Sri lanka : Buddhist Publication Society, 1979: 7.
[13] T.W. Rhys Davids & William Stede, Pali - English Dictionary (Từ Điển Anh- Pàli), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1997: 712.
[14] M. Monier William, Sanskrit - English Dictionary (Từ Điển Anh- Sanskrit), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1999: 1079.
[15] T.W. Rhys Davids & W. Stede, Pali-English Dictionary (Từ Điển Anh-Pali), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1997: 685.
[16] Mahāthera Nārada, The Buddha and His Teachings (Đức Phật và Phật pháp), Kandy- Sri-Lanka: Buddhist Publication Society 1997: 305.
[17] T.W. Rhys Davids & W. Stede, Sđd., 1997: 390; M. M. Williams, Sanskrit-Enghlish Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1999: 659.
[18] Thích Minh Châu, Kinh Trường Bộ, quyển I, 1991:
88; Dialogues of the Buddha, quyển I, 1995: 53f. Xem thêm về Tuệ (Pannā
or Wisdom) trong P. D. Premasiri, 'Ethics' (Đạo đức), trong W.G.
Weeraratne (Tổng Biên tập), The Encyclopaedia of Buddhism (Bách Khoa Phật Giáo), Sđd., trang 152; Tadeusz Skorupski, 'Prajna' (Tuệ), trong M. Eliade (Biên tập), The Encyclopaedia of Religion, quyển 11, 1987: 477ff; E. Lamotte(au) & Sara Webb-Boin (dịch), History of Indian Buddhism (Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ), Louvain-le-Neuve: Institute Orientaliste de I'Universite' Catholique de Louvain, 1988: 44ff; B. Buddhaghosa (tác giả) & Nanamoli (dịch), The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), Kandy, Sri-Lanka: Buddhist Publication Society, 1991: 435ff; Mahāthera Nārada, The Buddha and His Teachings, Sđd., trang 320ff-353f; Thích Nhất Hạnh, The Heart of the Buddha's Teaching (Nền Tảng Phật Pháp), New York: Broadway Books, 1998: 210ff; His Holiness The Dalai Lama, The Way to Freedom (Con Đường Giải Thoát), Dharmshala: The Library of Tibet, 2000: 179ff; P.D. Santina, The Tree of Enlightenment (Cây Giác Ngộ), Taiwan: The Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999: 65ff; D.K. Barua, An Analytical Study of Four Nikāyas (Sự Nghiên Cứu về Bốn Bộ Nikàyas), Delhi: Munshiram Manohalal Publishers Pvt. Ltd., 2003: 159ff; T. Kyabgon, The Essence of Buddhism: An Introduction to Its Philosophy and Practice (Nền Tảng Phật Giáo: Sự Giới Thiệu về Triết Học và Thực Hành của Phật Giáo),
Boston & London: Shambhala Publications, Inc., 2001:69ff; Geshe
Sonam Rinchen (tác giả); Ruth Sonam (dịch & biên tập), The Six Perfections (Lục Độ Ba La Mật), Ithaca- New York: Snow Lion Publications, 1998: 95ff.
[19] Thích Minh Châu, Kinh Trường Bộ, quyển I, Sđd., trang 559- 617- 621f; W. & C. A. F Rhys Davids (dịch), T. W. Rhys Davids (biên tập), Dialogues of the Buddha (Kinh Trường Bộ), quyển II, 1995:89f, 132f, 136.
[20] Xem thêm về 'Tam Vô lậu học' trong Thích Minh Châu, Kinh Tăng Chi Bộ, quyển I, 1996: 415ff, 435ff; F. L. Woodward (dịch), The Book of the Gradual Sayings (Kinh Tăng Chi Bộ), quyển I, 2000: 208ff, 219ff; P. D. Premasiri, 'Ethics', trong W.G. Weeraratne (Tổng Biên tập), The Encyclopaedia of Buddhism (Bách Khoa Phật Giáo), Sđd., trang 150ff; E. Lamotte(au) & Sara Webb-Boin (dịch), History of Indian Buddhism (Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ), Sđd., trang 42ff; trong Gerald Roscoe, The Triple Gem: An Introduction to Buddhism (Tam Bảo: Giới Thiệu về Phật Giáo), Sđd., trang 8ff, 12ff, 21ff; B. Sāgharakshita,
'Buddhism in the Modern World: Cultural and Political Implications'
(Phật Giáo trong Thế Giới Hiện Đại: Những Liên Quan về Chính Trị và Văn
Hóa), trong P.V. Bapat (Biên tập), 2500 Years of Buddhism (Phật giáo 2500), Sđd., trang 389f; H.H. Dalai Lama (Tác giả); Ramanan, R. (Biên soạn), The Heart of Compassion (Lòng Từ), Sđd., trang 110ff; Walpola Rahula, What the Buddha Taught (Điều Đức Phật Đã Dạy), Sđd., trang 46ff; Hammalawa Saddhatissa, Buddhist Ethics (Đạo Đức Phật Giáo), Sđd., trang 40ff; Mahathera Piyadassi, The Spectrum of Buddhism: Writings of Piyadassi (Hình Ảnh Phật Giáo: Các Bài Viết của Piyadassi), Sđd., trang 204ff; M. Fowler, Buddhism: Beliefs and Practices, p. 58ff; D.K. Barua, An Analytical Study of Four Nikāyas (Sự Nghiên Cứu về Bốn Bộ Nikàyas), Sđd., trang 121ff; Inder L. Malik, Dalai Lamas of Tibet (Các Dalai Lamas ở Tây Tạng), New Delhi: Computer Prints Combine, 1984: 154ff.