Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Phương thức giáo dục tuổi trẻ Phật giáo trong thời kỳ hội nhập
Thích Quang Thạnh
24/11/2011 15:57 (GMT+7)


A. DẪN NHẬP 

            Khi những làn sóng phát triển tột đỉnh của nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện đại ngày càng phát triển, sự đòi hỏi về trí thức và nhu cầu sống của con người ngày càng trở nên gia tăng; đặc biệt là giới trẻ thanh thiếu niên ngày nay. Chính vì vậy, họ luôn phải đấu tranh và đối diện với nhiều tình huống khó khăn trong cuộc sống hầu tìm cho mình một hướng đi đầy khát vọng để đạt được mục đích và giá trị sống xứng đáng trong xã hội, nhất là trong thời kỳ hội nhập cộng đồng quốc tế hiện nay. Nếu không có sự tu tập nội tâm và thấu triệt đúng đắn trước những làn sóng văn minh ấy, những trái tim nhiệt huyết và khát vọng ấy sẽ bị mất phương hướng trước bùng binh của cuộc đời. Ngài P.A. Payutto, một học giả nổi tiếng, đã tuyên bố dõng dạc rằng sự phát minh khoa học kỹ thuật như những công cụ để mưu cầu mục đích khát vọng hơn là sự phát triển nội tâm con người, và rằng con người ở thế kỷ 20 gây ra nhiều hành vi nguy hại làm ảnh hưởng đến bản chất con người của thế kỷ 21 sẽ phải đối phó.[1]

     Trước những tình huống hiện nay, làm thế nào để bảo dưỡng những trái tim đầy nhiệt tâm ấy không bị nguội lạnh và chuyển máu? Và làm thế nào để giáo dục và định hướng cho thanh thiếu niên Phật tử có tư tưởng đúng đắn trên con đường học tập và truy tìm mục đích sống của mình trong thời kỳ hội nhập? Đề tài "Phương Thức Giáo Dục Tuổi Trẻ Phật Giáo trong Thời Hội Nhập” sẽ mở ra một chân trời mới trợ giúp cho thanh thiếu niên luôn có một trái tim tươi đỏ, thấm đượm những giá trị: 'Tài, Đức và Trí' của một người hoàn thiện.

 

B. NỘI DUNG

1. GIẢI THÍCH ĐỀ TÀI

- ‘Phương thức’ hay còn gọi là “phương pháp; cách thức; đường lối; .v..v.” Trong tiếng Anh, nó thường được dùng từ ‘method’ [2] hoặc ‘way.’ [3]

- ‘Giáo dục’ là sự huấn luyện và giảng dạy nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng phát triển, nó được dịch từ tiếng Anh là ‘education’ [4] 

- “Tuổi trẻ” trong tiếng Anh được dịch là ‘Youth’[5], tức là chỉ cho những lớp thanh niên, hay lứa tuổi thanh niên tràn đầy tuổi xuân, và sức sống; là những người luôn tràn đầy nhiệt huyết và có ý chí mạnh mẽ tiến thẳng về tương lai để đạt được những ước mơ và hoài bảo của mình.

- “Phật giáo” là một danh từ đóng vai trò là một tính từ trong đề tài này với nghĩa ‘thuộc về Phật giáo’ bổ nghĩa cho danh từ ‘Tuổi trẻ’. Từ tiếng Anh của nó là ‘Buddhist’[6]; nghĩa là người Phật tử mộ đạo; người đệ tử tín tâm của đức Phật.

- “Tuổi trẻ Phật giáo” chỉ cho những đối tượng thanh thiếu niên, hay lứa tuổi thanh niên tràn đầy tuổi xuân, và sức sống; là những người luôn tràn đầy nhiệt huyết và có ý chí mạnh mẽ tiến thẳng về tương lai, và luôn dựa trên sự tu tập nội tâm làm nền tảng cho việc truy tìm mục đích khát vọng của mình.

 - “Thời kỳ hội nhập” là chỉ cho thời kỳ của một đất nước đã và đang trên đà phát triển, luôn cách tân về mọi mặt để hòa nhập với cộng đồng quốc tế hiện nay.

         Đề tài "Phương Thức Giáo Dục Tuổi Trẻ Phật Giáo trong Thời Hội Nhập” muốn nhấn mạnh về phương pháp giáo dục tâm lý của các bậc sư trưởng, cha mẹ và thầy cô đối với thanh thiếu niên học sinh, sinh viên trên con đường truy tìm giá trị đích thực của cuộc sống trong thời kỳ hội nhập hiện nay.

 

      2. PHƯƠNG THỨC GIÁO DỤC

         a. Giáo dục tâm lý

         Sống trong thời hội nhập thương trường quốc tế hiện nay, một thời kỳ buột con người cần phải thay đổi, phải cải cách và phải tuân thủ theo những yêu cầu của cuộc sống đầy phiền phức, bận rộn và căng thẳng. Tuy nhiên, thời hội nhập cũng chính là một cơ hội tốt cho tuổi trẻ thanh niên (nói chung) và tuổi trẻ Phật giáo (nói riêng) có đủ những điều kiện thuận lợi về mọi mặt cả vật chất lẫn tinh thần, để phát huy kiến thức, sở trường và tiềm năng của chính mình. Thế nhưng, những điều kiện thuận lợi ấy đôi khi sẽ là liều thuốc bổ dưỡng trợ lực cho họ thành đạt công danh và phát triển nhân cách, và ngược lại, nó sẽ là liều thuốc độc hại làm cho giới trẻ thất bại công danh và ô nhiễm nhân cách. Nó giống như một luồng gió thổi qua có thể làm cho người khỏe mạnh cảm thấy dễ chịu hoặc người yếu ớt trở nên bệnh tật. Vì thế, những nhà giáo dục, các bậc cha mẹ, sư trưởng, v..v, cần sử dụng phương thức giáo dục tâm lý nhằm hướng dẫn cho các bạn trẻ nhận thức đúng đắn về vai trò và trách nhiệm của mình để phát huy mạnh mẽ về các phương diện: học tập, sự nghiệp, tư tưởng, kiến thức và kinh nghiệm sống, .v..v.; trau dồi và phát huy tích cực về mọi mặt trong cuộc sống để hoàn thành tốt vai trò và trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã hội và bản thân. Muốn đi đến thành công về mặt giáo dục tâm lý đối với giới trẻ ngày nay, các nhà giáo dục cần nên:

a.Cải cách quan điểm sống cổ hữu của mình, có tư tưởng phóng khoáng, một tâm hồn mở rộng và thông cảm để lắng nghe những suy nghĩ và khát vọng của giới trẻ.

  1. Góp ý, chỉ dạy, hướng dẫn và giáo dục, .v..v, đúng tiềm năng, sở trường hoặc sở đoản của các bạn trẻ; không theo suy nghĩ riêng của mình để ép buột giới trẻ.

c.Thực hiện tốt tinh thần “tùy duyên bất biến” của Phật giáo trong các vai trò là cha mẹ; là bạn bè; là người đồng hành; là huynh đệ; .v..v. với các bạn trẻ theo từng hoàn cảnh và tình huống nhằm chia sẻ, động viên, góp ý cho giới trẻ mỗi khi các bạn cần sự giúp đỡ, quan tâm, góp ý và chia sẻ của chúng ta.

  1. Luôn tôn trọng những quyết định của các bạn trẻ; ủng hộ cho giới trẻ thực hiện những gì họ thích trong một tư tưởng đúng đắn.

e.Tôn trọng những chuyện riêng tư của giới trẻ, nhất là chuyện tình cảm; nên ủng hộ quan điểm rồi hướng dẫn họ là thượng sách, thay vì ngăn cấm để dạy bảo và góp ý.

  1. Hãy giáo dục và góp ý cho các bạn trẻ những gì họ đang muốn biết; hãy cho và ủng hộ các bạn trẻ những gì họ đang cần.

Có như vậy, những nhà giáo dục, các bậc cha mẹ và sư trưởng, .v..v. mới có thể thành công trong lãnh vực giáo dục tâm lý đối với giới trẻ thanh thiếu niên thời nay.[7]

 

         b. Giáo dục Phật giáo

         Giáo dục Phật giáo là phương pháp giáo dục nhằm phát triển nhân cách đạo đức của con người hướng đến đời sống chơn thiện mỹ. Đó chính là sự tu dưỡng về nội tâm qua phương pháp thực hành Tam Vô Lậu Học (Giới-  Định và Tuệ), là ba nhân tố hỗ tương qua lại và phát triển việc tu tập đạo đức cá nhân. Điều quan trọng nhất là khi tu tập Tam Vô Lậu Học, các hành giả thanh thiếu niên cần phải dựa trên tinh thần vô ngã, vô chấp, uyển chuyển, năng động; đồng thời phải thấu triệt đúng đắn về Pháp và Luật của đức Phật như là chiếc bè phương tiện đưa người qua sông mê bể khổ. Để nhấn mạnh về quan điểm này, đức Phật tuyên bố rõ ràng trong kinh Trung Bộ rằng: “Cũng vậy, này chư Tỳ kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỳ kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè… Chánh pháp còn bỏ đi, huống nữa là phi pháp.”[8]

 

  • Sự tu tập về Giới (P: Sīla, Skt: Śīla)

           Giới (Sīla) là sự hướng dẫn về tư cách đạo đức (guide for behavior)[9]; hoặc phép tắc để hành xử (rule for action);[10] hay có nghĩa khác là lời dạy, mệnh lệnh, sự ngăn cấm, quy luật,…v..v..(precept, command, prohibition, dicipline, ect.)[11]. Về phương diện đạo đức, Giới (Sīla) có nghĩa là: giới hạnh (Virtue) như B. Buddhaghosa đã định nghĩa[12].

            Đặc biệt, về phương diện tu tập, “Giới” là từ ngữ của Pàli được hiểu theo nhiều nghĩa như: việc thực hành đạo đức; đức tính tốt; đạo đức Phật giáo; và điều lệ về đạo đức (moral practice, good character, Buddhist ethic, and code of morality)[13]. Trong Từ Điển Sanskrit-Anh, Giới (Śīla) được giải thích là phong cách cư xử theo đạo đức, là một trong 6 hoặc 10 pháp Ba-la-mật; hoặc được giải thích là giới điều về đạo đức[14].

Như trên đã đề cập, giới của Phật giáo luôn dựa trên đạo đức và lòng từ. Sự tuân thủ giới là nhằm vào sự tu tập ý thức đạo đức cá nhân hầu làm cho con người thoát khỏi mọi khổ đau ở đời. Vì thế, đức Phật đã sử dụng nhiều phương tiện thiện xảo bằng cách tạm thiết lập các giới điều cho các đệ tử thực hành hầu mang lại sự an lạc và hạnh phúc cho con người. Nếu con người đã hoàn toàn thuần thục nhân cách và nội tâm không còn những phiền não (tham, sân, si), sự tu tập giới sẽ không còn hữu dụng. Do vậy, sự tu tập giới cần được uyển chuyển, tích cực và sáng tạo trong tinh thần “tùy duyên bất biến” ở mọi tình huống và thời đại; nhất là trong thời hội nhập cộng đồng quốc tế ngày nay. Vì sao? Như chúng ta biết, là một con người dĩ nhiên đều được nuôi dưỡng bởi hai loại thức ăn: (1) thức ăn vật chất bao gồm: gạo, sữa, rau, đậu, mì, bắp… để nuôi dưỡng thân vật chất, và (2) thức ăn tinh thần bao gồm những lạc thú thế gian như: ca hát, thể thao, bơi lội, đá banh, tình yêu, … để thỏa mãn nhu cầu cho con người về mặt tinh thần. Điều quan trọng là khi tiếp nhận những thức ăn đó, chúng ta có thấu triệt hoàn toàn về những kết quả tốt hay xấu từ hành vi của chúng ta hay không? Có nghĩa là chúng ta nên hiểu đúng đắn làm thế nào để tiếp nhận hai loại thức ăn này mà không có sự bội thực, không đưa đến kết quả tồi tệ, và không có sự cấu uế hay bất tịnh trong thâm tâm của mình. Giống như một người đang khát nước trên đường đi, vị ấy tìm kiếm nước uống, sau khi uống xong, vị ấy hết khát và tiếp tục đi thẳng trên con đường mình đang đi mà không có sự luyến tiếc hay say đắm vì nước, không có sự ràng buột và cấu uế trong thâm tâm. Bằng việc làm như thế, vị ấy đã thực hành giới đúng đắn, thích hợp và năng động. Đó gọi là sự tu tập Giới theo phương pháp uyển chuyển, thích hợp và chuẩn mực.

 

  • Sự tu tập Định (P; Skt: Samàdhi)

         Định là một trạng thái chăm chú, bình tĩnh và tập trung của tâm và định mà nó đi kèm với lối sống thiện là điều kiện cần thiết để đạt được trí tuệ và giải thoát.[15] Hay cách nói khác, nó là sự nhất tâm, là sự tập trung của tâm về một đối tượng để loại trừ toàn bộ tất cả những cái khác.[16]

     Trong bối cảnh ngày nay, tuổi trẻ thanh thiêu niên cần thấu triệt rằng sự tu tập thiền định không có nghĩa là ngồi im bất động trong khi thiền, mà phải được biểu lộ qua những công việc và lối sống hàng ngày để thích nghi với những tình huống xã hội hiện nay. Có nghĩa là vị ấy tu tập thiền định bằng cách luôn duy trì trạng thái tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, ăn uống, ngủ nghĩ, lái xe, học tập, tắm rữa, đọc sách, … Nói chung,  tất cả những công việc và sự tu tập hàng ngày được dẫn dắt bởi chánh niệm và tỉnh giác. Từ quan điểm trên, chúng ta có thể suy luận rằng khi một hành giả đang làm việc trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vị ấy luôn chú tâm tỉnh giác, có ý thức và trách nhiệm trong công việc, không có sự sao lãng và thờ ơ và luôn cẩn thận khi làm việc, … hành động như thế được gọi là thiền trong khi làm việc. Cũng vậy, những công việc hàng ngày khác cũng tương tự như thế đều gọi là sự tu tập Định. Đây chính là ý nghĩa tu tập Định của Phật giáo một cách tích cực và năng động trong thời đại mới ngày nay.

 

 

  • Sự tu tập Tuệ (P: Pañña; Skt: Prajña)

         Tuệ là sự hiểu biết, sự nhận thức đúng đắn, sự nhận ra, cách phán xét, sự thấu triệt, sự hiểu biết về trực giác, …[17] Trong các bộ kinh thuộc truyền thống Nikāya, chúng ta có thể nhận thấy lời dạy của đức Phật về Prajđa hay Pañña (Pāli) rằng vị nào nhận biết như thật về sự tập khởi, sự diệt trừ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu chỗ xuất xứ, vị ấy sẽ có một sự hiểu biết vượt ngoài những điều trên.[18]

         Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, tuổi trẻ thanh thiếu niên Phật giáo cần được tu tập trí tuệ bằng cách thực hành chánh kiến và chánh tư duy. Có nghĩa rằng vị ấy trước hết cần thấu triệt hoàn toàn lời dạy của đức Phật bao gồm kinh, luật và luận để ứng dụng đúng đắn vào sự tu tập nội tâm; thấu suốt triệt để về: ‘lý Nhơn Quả’ đưa đến kết quả thiện ác từ hành động, ‘lý Duyên Khởi’ bắt nguồn từ vô minh và tham dục của toàn bộ khổ uẩn, và đối với ‘Tứ đế’  cũng như ‘Bát Chánh đạo’ đưa đến sự đoạn diệt hoàn toàn các khổ uẩn, đạt đến Niết bàn và giải thoát. Đó được gọi là sự tu tập Tuệ với nghĩa đúng đắn và thích hợp. 

     Nói chung, trong mối liên hệ mật thiết về Tam Vô Lậu Học, chúng ta có thể nhận thấy rằng Giới - Định - Tuệ được phối hợp chặt chẽ và tác động hỗ tương vói nhau trên tiến trình tu tập giải thoái giác ngộ. Chính vì vậy, đức Phật đã khẳng định quan điểm này trong Kinh Trường Bộ rằng:

Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.[19] 

     Từ ý nghĩa trên, chúng ta có thể khẳng định mạnh mẽ rằng Giới-Định-Tuệ được xem như kiềng ba chân. Vì nếu thiếu một trong ba thì nó không thể đứng vững vàng trên mặt đất được. Sự tu tập Tam Vô lậu cũng vậy. Nếu sự tuân thủ Giới mà không có sự hiện hữu của Định và Tuệ, nó trở thành sự tuân thủ giới một cách cố chấp. Có nghĩa là xuyên tạc những lời răn dạy không chính thống. Và sự tuân thủ Định và Tuệ cũng như vậy.[20]

C. KẾT LUẬN

         Nhìn chung, tuổi trẻ thanh thiếu niên Phật giáo là những mầm non tương lai trong khu rừng đầy giá trị của sự sống; là mùa xuân của sự phát triển tiềm năng; là những đóa hoa tươi đang khoe sắc trong vườn hoa anh tài; là nhân tố tích cực và quan trọng trong vai trò góp phần xây dựng ngôi nhà Phật giáo nói riêng và đất nước nói chung mãi mãi trường tồn và phát triển. Vì vậy, phương thức giáo dục thanh thiếu niên Phật giáo ngày nay cần được áp dụng hoàn thiện qua 2 phương pháp, đó là: phương pháp giáo dục tâm lý và giáo dục Phật giáo. Có như vậy, tuổi trẻ thanh thiếu niên Phật giáo mới có thể phát huy mạnh mẽ về tài năng, kiến thức, nhân cách, đạo đức và tiềm năng vốn có của chính mình nhằm hướng đến sự hoàn thiện về 3 phương diện ‘Tài, Đức và Trí.’ Đó chính là kiềng 3 chân vững chắc cho tuổi trẻ Phật giáo để trang bị đầy đủ những yếu tố sau đây trước khi hội nhập cuộc đời: Thứ nhất chính là sự kiên nhẫn vượt khó; sẵn sàng lắng nghe và học tập những kinh nghiệm quý báu về cuộc sống và cách ứng xử giao tế trong xã hội từ những người đi trước; luôn phát huy ý chí, nghị lực và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ để phát triển tiềm năng của chính mình; v.v... Thứ hai chính là sự thành đạt lãnh vực học vấn, cập nhật mọi kiến thức liên quan đến công việc và cuộc sống ở nhiều lãnh vực; v.v... Thứ ba là siêng năng phát triển nhân cách đạo đức bằng sự tu tập nội tâm qua phương pháp Tam Vô Lậu Học của Phật giáo. Có như vậy, tuổi trẻ thanh thiếu niên Phật giáo mới có thể thành đạt, phát triển và đứng vững trên đấu trường quốc tế về mọi phương diện khi truy tìm giá trị đích thực cuộc sống trong thời hội nhập ngày nay. 

 

 THƯ MỤC

I. KINH (Anh & Việt)

Dialogues of the Buddha,                        F. Max Muller, (ed.) & T.W. Rhys Davids (trans.), Vol. I (1995); W. & C. A. F Rhys Davids (trans.), T. W. Rhys Davids (ed), Vol. II (1995), Oxford: PTS.

 

The Middle Length Sayings,                    I.B. Horner, (trans.), Vol. II (1997), Oxford: PTS.

 

The Book of the Gradual Sayings,           F. L. Woodward (trans.), Vol. I (2000), Oxford: PTS.

 

Kinh Trường Bộ,                                     Thích Minh Châu (dịch), quyển I & II, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1991.

 

Kinh Trung Bộ,                                        Thích Minh Châu (dịch), quyển I (1992), TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam.

 

Kinh Tăng Chi Bộ,                                  Thích Minh Châu (dịch), quyển I, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1992.

II. SÁCH

Roscoe, G.,                                The Triple Gem: An Introduction to Buddhism, Chiang Mai, Thailand: Silkworm Books, 1994.

 

Bapat, P.V. (ed.),                        2500 Years of Buddhism, Delhi: Publication Division, 1997.

H.H. Dalai Lama (au.) &

Ramanan, R. (compiler),            The Heart of Compassion, Delhi: Full Circle Publishing, 2001.

 

Fowler, M.,                                 Buddhism: Beliefs and Practices, Brighton & Portland: Sussex Academic Press, 1999.

 

Saddhatissa, H.,                         Buddhist Ethics, Boston: Wisdom Publications, 1997.

 

Piyadassi, M.,                             The Spectrum of Buddhism: Writings of Piyadassi, Colombo: Printers & Publishers Karunaratne & Sons Ltd., 1991.

 

Rahula, W.,                                What the Buddha Taught, Sri Lanka: Buddhist Cultural Centre, 1996.

 

Dhar, S.,                                     Transformation and Trend of Buddhism in the 20th Century, Calcutta: Firma KLM Pvt. Ltd, 1986.

 

Dutt, N.,                                     Early Monastic Buddhism, Calcutta: Firma KLM Private LTD., 1981.

 

Williams, P.,                                Buddhist Thought: A Complete Introduction to the Indian Tradition, London & New York: Routlege, 2000.

 

Gethin, R.,                                 The Foundation of Buddhism, Oxford & New York: Oxford University Press, 1998.

 

Nārada, M.,                                The Buddha and His Teachings, Kandy, Sri-Lanka: Buddhist Publication Society, 1997.

 

Thích, Nhất Hạnh,                     The Heart of the Buddha's Teaching, New York: Broadway Books, 1998.

Lamotte, E. (author) &

Sara Webb-Boin (trans.),            History of Indian Buddhism, Louvain-le-Neuve: Institute Orientaliste de I'Universite' Catholique de Louvain, 1988.

Buddhaghosa, B., (author) &

B. Buddhaghosa (tác giả) &

Bhikkhu Nanamoli (dịch),         The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), Sri lanka: Buddhist Publication Society, 1979 & 1991.

 

H.H. The Dalai Lama,                The Way to Freedom, Dharmshala: The Library of Tibet, 2000.

 

Santina, P.D.,                             The Tree of Enlightenment, Taiwan: The Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999.

Barua, D.K.,                               An Analytical Study of Four Nikayas, Delhi: Munshiram Manohalal Publishers Pvt. Ltd., 2003.

 

Kyabgon, T.,                              The Essence of Buddhism: An Introduction to Its Philosophy and Practice, Boston & London: Shambhala Publications, Inc., 2001.

Rinchen, G.S., (author) &

Sonam, R., (trans. & ed.),          The Six Perfections, Ithaca, New York: Snow Lion Publications, 1998.

 

Fowler, M.,                                 Buddhism: Beliefs and Practices, Brighton & Portland: Sussex Academic Press, 1999.

 

Malik, Inder L.,                          Dalai Lamas of Tibet, New Delhi: Computer Prints Combine, 1984.

 

III. BÁCH KHOA & TỪ ĐIỂN

 

Crowther, J. (biên tập),                             Advanced Learner's Encyclopedic Dictionary, Oxford: Oxford University Press, 1992.

 

Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên),                 Từ Điển Anh- Anh Việt, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 1999.

 

Weeraratne, W. G., (ed.)                           The Encyclopaedia of Buddhism, Vol. V, Sri Lanka: The Department of Buddhist Affairs, Ministry of Buddhasasana, 2000.

 

Stede, W.,                                                 Pali-English Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1997.

 

Williams, M. M.,                                       Sanskrit-Enghlish Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1999.

 

Eliade, M., (ed.),                                       The Encyclopaedia of Religion, Vol. 11, New York: Macmillan Publishing Company, 1987. 

 

Cowie, A. P (biên tập),                             Oxford Advanced Learner’s Dictionary, London: Oxford University Press, 1992.

 

Procter, P. (Tổng biên tập),                       Cambridge International Dictionary of English, London: Cambridge University Press, 1995.

 

Soothill, W. E. &

Hodous, L. (biên soạn),                            A Dictionary of Chinese Buddhist Terms, Delhi: Motilal Banarsidass, 1997: 239.

 


[1]           P. A. Payutto, Buddhist Solutions for the 21st Century (Các Giải Pháp của Phật Giáo đối với Thế Kỷ 21), đọc tại Nghị Viện Tôn Giáo Thế Giới ở Chicago, 1994, có giá trị  tại trang Web: ww.buddhismtoday.com/index/sociology.htm.

[2]           Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Từ Điển Anh- Anh Việt, Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 1999, trang 1271f; J. Crowther (biên tập), Advanced Learner's Encyclopedic Dictionary, Oxford: Oxford University Press, 1992, trang 564.

[3]           Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 1318ff; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 1023f.

[4]           Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 651f; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 284.

[5]           Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 2398; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 1056.

[6]           Nguyễn Sanh Phúc (chủ biên), Sđd., trang 260; J. Crowther (biên tập), Sđd., trang 115.

[7]           Xem thêm: cách giáo dục và cư xử giữa ‘cha mẹ với con cái’; ‘thầy với trò’; và ‘bạn bè với nhau’, trong T. W. & C. A. F. Rhys Davids (dịch), Sacred Book of the Buddhists: Dialogues of the Buddha (Thánh Kinh Phật Giáo: Trường Bộ kinh), quyển IV, phần III, trang 180f và trang 181; Thích Minh Châu, Kinh Trường Bộ, quyển II, TPHCM: Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, trang 541f và trang 542f.

[8]           Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ, quyển I, 1992: 307f; I. B. Horner (dịch), The Middle Length Sayings (Kinh Trung Bộ), quyển I, 2000: 173f. Xem thêm ‘Ví dụ chiếc bè’ trong Mahathera Piyadassi, Sđd., 1991: 225f; P. Williams, Buddhist Thought: A Complete Introduction to the Indian Tradition (Tư Tưởng Phật Giáo: Sự Giới Thiệu Hoàn Chỉnh về Truyền Thống Ấn Độ), London & New York: Routlege, 2000: 38ff; R. Gethin, The Foundations of Buddhism (Các Nền Tảng Phật Giáo), Oxford & New York: Oxford University Press, 1998: 71f.

[9]           A. P. Cowie (biên tập), Oxford Advanced Learner’s Dictionary (Từ Điển Oxford Nâng Cao), London: Oxford University Press, 1992: 704.

[10]         Paul Procter (Tổng biên tập), Cambridge International Dictionary of English (Từ điển Anh ngữ Quốc tế Cambridge), London: Cambridge University Press, 1995: 1109.

[11]         William Edward Soothill and Lewis Hodous (biên soạn), A Dictionary of Chinese Buddhist Terms (Từ điển Thuật Ngữ Phật Giáo Trung Quốc), Delhi: Motilal Banarsidass, 1997: 239.

[12]         B. Buddhaghosa (tác giả) & Bhikkhu Nanamoli (dịch), The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), Sri lanka : Buddhist Publication Society, 1979: 7.

[13]         T.W. Rhys Davids & William Stede, Pali - English Dictionary (Từ Điển Anh- Pàli), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1997: 712.

[14]         M. Monier William, Sanskrit - English Dictionary (Từ Điển Anh- Sanskrit), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 1999: 1079.

[15]         T.W. Rhys Davids & W. Stede, Pali-English Dictionary (Từ Điển Anh-Pali), Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1997: 685.

[16]         Mahāthera Nārada, The Buddha and His Teachings (Đức Phật và Phật pháp), Kandy- Sri-Lanka: Buddhist Publication Society 1997: 305.

[17]         T.W. Rhys Davids & W. Stede, Sđd., 1997: 390; M. M. Williams, Sanskrit-Enghlish Dictionary, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, Ptv. Ltd., 1999: 659.

[18]         Thích Minh Châu, Kinh Trường Bộ, quyển I, 1991: 88; Dialogues of the Buddha, quyển I, 1995: 53f. Xem thêm về Tuệ (Pannā or Wisdom) trong P. D. Premasiri, 'Ethics' (Đạo đức), trong W.G. Weeraratne (Tổng Biên tập), The Encyclopaedia of Buddhism (Bách Khoa Phật Giáo), Sđd., trang 152; Tadeusz Skorupski, 'Prajna' (Tuệ), trong M. Eliade (Biên tập), The Encyclopaedia of Religion, quyển 11, 1987: 477ff; E. Lamotte(au) & Sara Webb-Boin (dịch), History of Indian Buddhism (Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ), Louvain-le-Neuve: Institute Orientaliste de I'Universite' Catholique de Louvain, 1988: 44ff; B. Buddhaghosa (tác giả) & Nanamoli (dịch), The Path of Purification (Thanh Tịnh Đạo), Kandy, Sri-Lanka: Buddhist Publication Society, 1991: 435ff; Mahāthera Nārada, The Buddha and His Teachings, Sđd., trang 320ff-353f; Thích Nhất Hạnh, The Heart of the Buddha's Teaching (Nền Tảng Phật Pháp), New York: Broadway Books, 1998: 210ff; His Holiness The Dalai Lama, The Way to Freedom (Con Đường Giải Thoát), Dharmshala: The Library of Tibet, 2000: 179ff; P.D. Santina, The Tree of Enlightenment (Cây Giác Ngộ), Taiwan: The Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, 1999: 65ff; D.K. Barua, An Analytical Study of Four Nikāyas (Sự Nghiên Cứu về Bốn Bộ Nikàyas), Delhi: Munshiram Manohalal Publishers Pvt. Ltd., 2003: 159ff; T. Kyabgon, The Essence of Buddhism: An Introduction to Its Philosophy and Practice (Nền Tảng Phật Giáo: Sự Giới Thiệu về Triết Học và Thực Hành của Phật Giáo), Boston & London: Shambhala Publications, Inc., 2001:69ff; Geshe Sonam Rinchen (tác giả); Ruth Sonam (dịch & biên tập), The Six Perfections (Lục Độ Ba La Mật), Ithaca- New York: Snow Lion Publications, 1998: 95ff.           

[19]         Thích Minh Châu, Kinh Trường Bộ, quyển I, Sđd., trang 559- 617- 621f; W. & C. A. F Rhys Davids (dịch), T. W. Rhys Davids (biên tập), Dialogues of the Buddha (Kinh Trường Bộ), quyển II, 1995:89f, 132f, 136.

[20]         Xem thêm về 'Tam Vô lậu học' trong Thích Minh Châu, Kinh Tăng Chi Bộ, quyển I, 1996: 415ff, 435ff; F. L. Woodward (dịch), The Book of the Gradual Sayings (Kinh Tăng Chi Bộ), quyển I, 2000: 208ff, 219ff; P. D. Premasiri, 'Ethics', trong W.G. Weeraratne (Tổng Biên tập), The Encyclopaedia of Buddhism (Bách Khoa Phật Giáo), Sđd., trang 150ff; E. Lamotte(au) & Sara Webb-Boin (dịch), History of Indian Buddhism (Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ), Sđd., trang 42ff; trong Gerald Roscoe, The Triple Gem: An Introduction to Buddhism (Tam Bảo: Giới Thiệu về Phật Giáo), Sđd., trang 8ff, 12ff, 21ff; B. Sāgharakshita, 'Buddhism in the Modern World: Cultural and Political Implications' (Phật Giáo trong Thế Giới Hiện Đại: Những Liên Quan về Chính Trị và Văn Hóa), trong P.V. Bapat (Biên tập), 2500 Years of Buddhism (Phật giáo 2500), Sđd., trang 389f; H.H. Dalai Lama (Tác giả); Ramanan, R. (Biên soạn), The Heart of Compassion (Lòng Từ), Sđd., trang 110ff; Walpola Rahula, What the Buddha Taught (Điều Đức Phật Đã Dạy), Sđd., trang 46ff; Hammalawa Saddhatissa, Buddhist Ethics (Đạo Đức Phật Giáo), Sđd., trang 40ff; Mahathera Piyadassi, The Spectrum of Buddhism: Writings of Piyadassi (Hình Ảnh Phật Giáo: Các Bài Viết của Piyadassi), Sđd., trang 204ff; M. Fowler, Buddhism: Beliefs and Practices, p. 58ff; D.K. Barua, An Analytical Study of Four Nikāyas (Sự Nghiên Cứu về Bốn Bộ Nikàyas), Sđd., trang 121ff; Inder L. Malik, Dalai Lamas of Tibet (Các Dalai Lamas ở Tây Tạng), New Delhi: Computer Prints Combine, 1984: 154ff.

 

http://www.daophatngaynay.com/vn/

Các tin đã đăng:
Về đầu trang