Khi
nhận được lời mời tham gia vào đoàn hành hương gồm các doanh nhân, nghệ
sĩ và phóng viên Việt Nam tới Dharamshala thọ giáo Đức Đạt Lai Lạt Ma,
tôi hiểu đây có thể là cơ hội duy nhất trong đời tiếp xúc với người được
suy tôn là một trong ba vị thánh nhân của châu Á trong thế kỷ XX, và là
người duy nhất còn tại thế. Thân phận đặc biệt của Ngài và mối quan hệ
“tế nhị” giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ cản trở bất cứ cố gắng nào mời
Ngài viếng thăm Việt Nam, cho dù ảnh hưởng của Phật giáo Mật tông bắt
đầu được gia tăng ở đây.
Sau
bẩy giờ bay và chịu đựng những cú xóc kinh người suốt gần hai mươi
tiếng đồng hồ trên xe bus, chúng tôi tới Dharamshala khi trời đã tối.
Dharamshala, thủ phủ chính phủ lưu vong của người Tây Tạng là một thị
trấn nhỏ nằm dưới chân dãy Himalaya ở miền Bắc Ấn độ. Hãy nhắm mắt lại
hình dung ra Sapa, Mèo Vạc hay bất cứ một thị trấn vùng biên của Việt
Nam, thay thế hình ảnh người Mông, người Dao bằng người Tạng, hình ảnh
người Kinh bằng người Ấn độ- vậy là bạn đã hình dung ra Dharamshala.
Cũng
những dãy phố nhỏ dốc ngược, với hàng trăm cửa hàng nhỏ và tồi tàn bán
đủ thứ đồ lưu niệm tạp nham có nguồn gốc đáng ngờ, những con ngựa thồ
nặng vừa cặm cụi đi ngược dốc núi vừa vãi phân ra tung tóe trên đường,
những khách sạn mini và các quán bar nhỏ xíu với các biển quảng cáo được
viết cẩu thả bằng tiếng Anh, tiếng Ấn, những đống rác khổng lồ bốc mùi
hôi khủng khiếp ở cạnh sườn núi.
Cũng
giống như các thánh địa khác, Dharamshala thu hút đủ mọi loại người:
các tăng nhân người Tạng, giới bán hàng rong và đám “cái bang” Ấn độ,
các nhà sư có nguồn gốc từ mọi ngóc ngách trên thế giới đang học tập tại
các tu viện Mật tông, những người mộ đạo Phật, những kẻ hiếu kỳ và
khách du lịch thập phương. Từ năm 1959, nơi đây đã trở thành “tiểu
Lasha”, “thủ đô lưu vong” của người Tạng và hành cung của Đức Đạt Lại
Lạt Ma thứ 14, Tenzin Gyatso (hay Đăng-Châu Gia-mục-thố theo phiên âm
tiếng Hán).
"Qui Lão": Người ta cứ làm như khoác chiếc áo này lên tôi sẽ trở nên thánh thiện hơn
“Qui Lão” giản dị
Trước
khi tới Dharamshala, tôi đã nghe nói nhiều về tính giản dị của Đức Đạt
Lại Lạt Ma, và được căn dặn ông chỉ muốn mọi người coi ông như một “nhà
sư bình thường”- nhưng liệu có thể coi lãnh tụ tinh thần của gần sáu
triệu người Tạng, người đã từng đoạt giải Nobel hòa bình vì đấu tranh
hòa bình suốt hơn nửa thế kỷ qua cho quyền tự quyết của nhân dân Tây
Tạng là một “nhà sư bình thường” như bất kỳ một nhà sư nào khác? Ấy vậy
mà, đó chính là cảm giác của tôi trong buổi sáng đầu tiên, khi các thị
giả đưa ông vào phòng Pháp thoại (ở tuổi 77, mặc dù trông vẫn rất khang
kiện, nhưng bước chân của ông đã trở nên nặng nề)- nếu không phải khuôn
mặt của ông đã trở nên quá quen thuộc với chúng tôi qua sách báo thì ông
có thể lẫn vào với bất cứ một nhà sư Mật tông nào khác.
Ông
ngồi đó, bộ trang phục đơn sơ hở một bên vai, hòa hợp một cách tuyệt
vời với sự giản dị của tu viện Namgyal, tu viện riêng của ông, trên
chiếc ghế bành đơn giản đến không thể đơn giản hơn được nữa. Ngoài một
bức tranh Phật Tổ và mười bẩy bức Thang-ka họa hình các thánh tăng trang
trí trên tường, phòng học của chúng tôi giống hệt như phòng học của bất
cứ một lớp học phổ thông nào tại Việt Nam.
Câu
đầu tiên của ông nói với chúng tôi (câu ông sẽ còn phải nhắc lại rất
nhiều lần trong suốt hai ngày kế tiếp) là “ngồi, ngồi đi”- qua cách xua
tay dứt khoát của ông, có vẻ ông rất “dị ứng” với việc chúng tôi định cử
hành lễ “tam bái”, nghi lễ được các sư thầy chuẩn bị cho cả đoàn để
biểu hiện lòng thành kính của chúng tôi đối với ông. “Tôi xin lỗi vì ra
muộn”- ông nói vẻ hối lỗi-“ có một đoàn đại biểu của người dân tộc tôi
vừa tới, và tôi phải tiếp họ một chút. Các bạn biết đấy, họ tới được đây
không dễ một chút nào…”.
Ngừng
một chút, ông nói tiếp “ Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam ở Mỹ,
Pháp, Úc…và tôi luôn luôn giữ một tình cảm đặc biệt đối với đất nước và
dân tộc Việt Nam, nhưng đặc biệt hơn cả là đối với những người Việt Nam
đến từ Việt Nam”.
Từ
Đức Đạt Lai Lạt Ma toát ra một sự an lạc, bình thản vô cùng, và kể từ
giây phút đó, hai ngày pháp thoại của chúng tôi bên cạnh ông không còn
giống như hai ngày của các tín đồ sùng tín với Đức Phật sống của họ, thế
thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, mà giống như hai ngày chúng tôi trở về
quê hương, ngồi hầu chuyện ông mình trong ngôi nhà cổ xưa của dòng họ,
một cảm giác kính trọng nhưng vô cùng thân thuộc.
Thân
thuộc trong cách ông gọi chúng tôi là “các anh chị em tôi từ Việt Nam”,
trong tiếng ho húng hắng của ông, trong cái cách ông tận tình trả lời
bất cứ câu hỏi nào của các thành viên trong đoàn. Chúng tôi thầm gọi đùa
ông là “Qui Lão”, mà quả thật, trên chiếc ghế bành của mình, trông ông
rất giống một “cụ rùa”, với đôi mắt già hiền từ, toát ra một vẻ thông
tuệ như đại hải mà lại tinh nghịch trẻ trung như trẻ thơ.
Ông
không ngừng lắc lư, ho hắng, hắt hơi, niệm chú, thỉnh thoảng lại gãi
gãi gò má và liên tục pha trò trong câu chuyện của mình. Suốt hai ngày
Pháp thoại, lúc nào cũng vang lên tiếng cười khà khà hóm hỉnh của ông,
dường như ông luôn ngạc nhiên vì những ý tưởng của chính mình và tự cười
chính những ý tưởng đó.
Từ
vẻ sững sờ khi một thành viên trong đoàn hỏi ông về câu nói được cho là
của ông đang lan truyền trên mạng Internet (“ Điều gì làm Ngài ngạc
nhiên nhất về nhân loại? Con người- bởi vì họ hi sinh sức khỏe để kiếm
tiền, rồi lại bỏ tiền ra để tìm lại sức khỏe. Họ quá sốt ruột với tương
lai nên chẳng còn thời gian để tận hưởng hiện tại, kết quả là họ chẳng
sống ở hiện tại hay ở tương lai. Họ sống như thể họ không bao giờ chết,
rồi lại chết như chưa từng được sống”).
“Tôi
có nói thế bao giờ đâu! Này, đừng tin ở Internet, nó là một trong những
thứ rất tốt đẹp được sinh ra, nhưng người ta cũng có thể lợi dụng nó để
làm điều xấu xa đấy!”, cho đến cách ông tự trào khi các thị giả khoác
lên người ông vương bào để ông làm lễ qui y và phát nguyện Bồ Đề tâm cho
một số thành viên trong đoàn( “để làm lễ nên họ bắt tôi phải mặc cái áo
bào này, làm như cái áo này sẽ làm cho tôi thánh thiện hơn ấy”); hay
ngay cả khi ông nói đến những vấn đề hệ trọng như quan hệ với nhà cầm
quyền Trung Quốc (“họ luôn gọi tôi là quỷ dữ, hôm nay thế là các anh chị
em đã được gặp quỷ rồi đấy”). Và tôi hiểu, tại sao với người Tạng, ông
là hiện thân của Huệ Hải (trí tuệ lớn như biển)- không gian xung quanh
ông tràn ngập vẻ đẹp mêng mông của sự giản dị, trong sáng mà thâm sâu
của một trí tuệ vĩ đại.
Vị Pháp vương giữa thế tục
“Thế
kỷ XXI là thế kỷ của lòng tham vật chất, và con người chợt nhận ra
rằng, những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật không giải quyết được những
vấn đề cơ bản của con người”- ông bắt đầu buổi Pháp thoại của chúng tôi
như vậy-“để giải quyết những vấn đề tinh thần của con người, có ba con
đường: tin vào một (hay nhiều) đấng chúa trời như Thiên chúa giáo, Hồi
giáo hay Ấn giáo; tin vào một đấng giác ngộ như Phật giáo; con đường thứ
ba là con đường của chủ nghĩa thế tục, mong muốn dùng khoa học để giải
quyết những vấn đề tinh thần của con người- và con đường này cũng hết
sức quan trọng”.
Trong
suốt hai ngày Pháp thoại, chữ “chủ nghĩa thế tục” cứ quay đi quay lại
trong bài giảng của ông. Có lẽ, trong các lãnh tụ tôn giáo, ông là người
quan tâm nhiều nhất đến những điểm chung giữa tôn giáo và khoa học, tôn
giáo và giáo dục, tôn giáo và đạo đức (“cần phải tăng cường giáo dục về
đạo đức cho con người, đạo đức thế tục không có nghĩa là thiếu tôn
trọng tôn giáo mà có nghĩa là tôn trọng tất cả các tôn giáo”-ông nói). Ở
một nghĩa nào đó, tôi cho rằng, sự quan tâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma đối
với chủ nghĩa thế tục có liên quan nhiều đến sự quan tâm của ông đối với
số phận của dân tộc Tạng, dân tộc ông đã dẫn dắt suốt năm mươi năm qua.
Cho
dù đã tuyên bố từ bỏ vai trò chính trị, không thể phủ nhận sự giằng xé
giữa vai trò nặng nề của một chính trị gia có trách nhiệm với dân tộc
bị đàn áp của mình, với mong muốn đạt được sự hiểu biết và giác ngộ cho
chính bản thân. Có một nối buồn ẩn sâu trong câu nói đùa của ông “ khi
xảy ra chiến tranh ở Việt Nam, tụng niệm “A-di-đà-phật” có làm chiến
tranh ngừng lại đâu? Cũng như dân tộc Tạng chúng tôi, tụng niệm
“A-di-đà-phật” có ngăn chặn được việc chúng tôi bị giết, bị đuổi khỏi
nhà, lưu vong trên xứ sở lạ được đâu? Cho nên tụng niệm “A-di-đà-phật”
không đủ, phải tìm cách hiểu thế giới, tìm cách nắm được tri thức thì
mới có cơ hội”
Chính
vì vậy, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, trong suốt ba mươi năm qua, ông đã tiến
hành hàng ngàn cuộc trao đổi với các nhà triết học, tâm lý học, vật lý
và vật lý lượng tử học, và chính trong các cuộc trao đổi như vậy, hai
bên đã làm giầu kiến thức cho nhau. “Các nhà khoa học hết sức quan tâm
đến quan điểm của Phật giáo về thế giới, bởi vì đối với Phật giáo không
có Đấng sáng tạo, mà đức Phật cũng là một chúng sinh bình thường nhưng
với huệ giác cao cả, tái sinh để khai mở con đường chứng ngộ cho nhân
loại mà thôi…họ đặc biệt quan tâm đến thuyết “duyên khởi” và “tùy thuộc
phát sinh” của Phật giáo chúng ta, vì khái niệm mọi vật liên quan tương
hỗ đến nhau của nhà Phật rất gần với cách họ hiểu về thế giới”.
Ông
cũng nói ông đã học được gì từ những cuộc trao đổi đó: “Trong một cuộc
hội nghị ở Nam Mỹ, tôi đã gặp một nhà vật lý nguyên tử người Chi-lê. Ông
ấy nói với tôi rằng, để có thể tìm hiểu được vật lý nguyên tử nói riêng
hay khoa học nói chung, với tư cách một nhà khoa học, ông ấy phải tìm
cách “thoát bỏ” khỏi khoa học để có góc nhìn rộng hơn. Ông ấy làm tôi
giật mình. Phải chăng để tìm hiểu về Phật giáo, tôi cũng phải tìm cách
“thoát bỏ” để có thể có một góc nhìn khác đối với Phật pháp”.
Vậy
phải hiểu thế giới như thế nào? “Có quá nhiều thứ xấu xa đã xảy ra chỉ
vì chúng ta luôn phân biệt “chúng nó” và “chúng ta”. Phân biệt giữa
chủng tộc này với chủng tộc khác, dân tộc này với dân tộc khác, thậm chí
gia đình này với gia đình khác, người này với người khác. Luôn luôn có
một ranh giới giữa “chúng nó” và “chúng ta”, và điều này tạo ra tham ái,
tham ái sẽ tạo ra sân hận, si mê.
Chỉ
khi nào mọi người hiểu rằng, nền tảng của con người nói chung, bất kể
họ là “nó” hay “chúng ta”, là ham muốn hạnh phúc, và vì vậy, chỉ khi
nhân loại hiểu rằng chỉ có một “chúng ta” thống nhất mà không có “nó”,
và tất cả chúng ta đều liên quan tương hỗ với nhau trong khát vọng mưu
cầu hạnh phúc, khi đó mới có thể có một thế giới hòa bình”.
Phật Giáo trong nghĩa bản thủy của nó
Trước
khi tới Dharamsala, có người giải thích cho tôi vì sao thời gian vừa
qua, bỗng dưng người Việt Nam đặc biệt quan tâm đến Mật tông Tây tạng.
“Người Việt mình vốn vừa mê tín vừa lười biếng, nên khi nghe đồn Mật
tông Tây tạng có nhiều chân ngôn, chú ngữ thì tin vào nó như tin vào
những phép mầu, lại nghĩ rằng theo truyền thống Mật tông, các bậc thầy
có thể truyền lại cho đệ tử những bí chú, các phép mầu (mà họ gọi một
cách “hiện đại” là “năng lượng”) thông qua mật ngôn hoặc trì chú, vì thế
không cần phải cố gắng gì, chỉ cần “có duyên” tìm ra được một bậc thầy
rồi câu thông được với linh hồn của bậc thầy đó là có thể có được những
năng lượng đặc biệt, do đó họ mới thích thú với Mật tông Tây tạng như
vậy”.
Đức
Đạt Lai Lạt Ma dường như thấy trước được điều đó, nên ông dành gần như
toàn bộ thời gian Pháp thoại của chúng tôi để dẫn dắt mọi người quay lại
với nguồn cội của Phật giáo. Ông cảnh báo “các bạn rồi sẽ gặp những vị
Lạt Ma, những người hứa với các bạn chỉ cần bỏ ra vài chục ngàn đô các
bạn sẽ đạt được tới sự giác ngộ. Hãy cảnh giác và sử dụng lý trí của
mình. Hãy lựa chọn bậc thầy của mình. Thử nghĩ xem, bạn ra chợ mua một
món đồ đắt tiền, bạn có xem xét cẩn thận không? Có kiếm tra nó không?
Vậy tại sao với một thứ quan trọng như Phật pháp, các bạn lại không xem
xét cho cẩn thận. Trong số 320 bộ sách của Tạng pháp, có 12 bộ nói về
những đức tính cần có của bậc thầy. Hiện quán Trang Nghiêm Kinh đã liệt
kê rất nhiều yêu cầu về bậc thầy, từ Từ, Hòa, Bi, Tuệ…vv nhưng Mật tông
còn đòi hỏi cao hơn, yêu cầu cả về nội công đức và ngoại công đức của
họ.
Đối
với Phật giáo, không có đường tắt! Phật giáo có thể tóm gọn trong hai
từ Giáo-Chứng! Trước tiên, phải học (Giáo), sau đó, khảo nghiệm nó, thực
hành nó để tìm ra huệ giác cho mình (Chứng)…Cũng giống như bước vào
trường học, phải học qua các lớp, chúng ta phải học tập dần dần, từ Giới
Học, tới Định Học và cuối cùng là Tuệ Học mới mong đạt được giác ngộ
chân chính. Bước đầu tiên như Giới Học, chúng ta cũng có tới 227 giới để
tu tập, chưa kể tới các bước kế tiếp…Đức Phật đã tìm ra con đường để
giải thoát, nhưng ngài chỉ chỉ cho chúng ta thấy con đường đó và làm thế
nào để đi đến đích, còn việc lựa chọn bước lên con đường đó và bước
từng bước để đạt tới giác ngộ cuối cùng là hành động của các anh chị
em…”
Vậy,
phải học gì? Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu buổi Pháp thoại bằng giáo
thuyết cho chúng tôi về “ngã” và ba câu hỏi quan trọng nhất của Phật
giáo Mật Tông (“ngã là gì”? “có kết thúc của ngã hay không?”, “ngã có
tồn tại độc lập với thể xác hay không?”). Ông cũng thuyết giảng về “luân
hồi”, về thuyết Duyên khởi và mười hai nhân duyên, đặc biệt về “vô
minh”, phân biệt giữa “vô minh do thiếu hiểu biết” và “vô minh do hiểu
biết sai” (ông dùng chữ “distorted ignorance” mà các sư thầy dịch là “tà
niệm”, nhưng tôi thấy không chính xác) và sự nguy hiểm của vô minh do
hiểu biết sai. Hiểu biết sai là nguồn gốc của “tam độc”- tham, sân, si
khiến con người bị chìm trong luân hồi, chịu đựng đau khổ của “nghiệp”.
Ông
giảng về tầm quan trọng của Tứ Diệu đế trong Chuyển luân kinh, giáo
pháp đầu tiên Đức Phật thuyết giảng tại vườn Lộc Uyển sau khi ngài đạt
Giác ngộ, Bát Chính Đạo và Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh, vừa giảng vừa
ngâm nga câu cuối cùng của tâm kinh “tadyatha-gate gate paragate
parasamgate bodhi svaha! (Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn
toàn vượt qua, tìm thấy giác ngộ). Dường như ông hiểu được, đối với một
“đại chúng” ô tạp như chúng tôi, tâm trí chứa đầy những thiên kiến của
“vô mình do hiểu biết sai” thì cách tốt nhất là dẫn dắt chúng tôi trở về
với điểm bắt đầu của Phật giáo.
Cho
nên, có thể đối với một số người, khoảng khắc Đức Đạt Lai Lạt Ma niệm
và hướng dẫn chúng tôi niệm hai mươi mốt lần Lục Tự Đại Minh chân ngôn
(Om Mani Padme Hum) là khoảng khắc xúc động nhất, nhưng với tôi, quan
trọng hơn cả là lời giảng của ông về chân ngôn này. Ông nói, Om có nghĩa
là Thân-Khẩu-Ý, Mani là ngọc quí, Padme là trí tuệ, Hum là kết hợp lại,
cho nên Lục Tự Đại Minh chân ngôn có nghĩa là hãy dùng trí tuệ để kết
hợp thân-khẩu-ý lại hoàn hảo để hiểu được tính Không, như một viên ngọc
quí. Hiểu được tính Không, có nghĩa là sẽ hiểu được cách “đoạn vô minh”,
từ đó đạt được sự giác ngộ.
Tôi
cứ tự hỏi, vì lẽ gì Đức Đạt Lai Lạt Ma phải mất hai ngày quí báu của
ông để truyền thụ Phật pháp cho chúng tôi, hơn một trăm người phần lớn
không phải Phật tử, phần lớn còn trong cõi vô minh. Phải chăng chúng tôi
đã quá may mắn, hay đối với ông, không quan trọng là bao nhiêu người, ở
đâu và khi nào, mà quan trọng là mầm thiện mà ông đã kiên nhẫn gieo vào
lòng chúng tôi, khi chúng tôi thầm phát nguyện Bồ Đề tâm theo sự dẫn
dắt của ông, bắt đầu bước bước chân đầu tiên trên con đường giác ngộ:
“Với ước nguyện giải thoát cho toàn thể chúng sinh, con xin về nương dựa
nơi Phật, Pháp cùng Tăng Già, cho đến khi giác ngộ. Hôm nay tâm hướng
về Từ bi và Trí tuệ, đối trước đức Phật, con quyết vì thế giới hữu tình,
nguyện phát tâm Bồ đề. Bao giờ không gian còn, hữu tình còn, nguyện con
còn ở lại, xua tan khổ nạn cõi thế gian”.