Chư tôn đức giáo phẩm dâng hương trước bảo tháp Tổ sư
Tham dự dâng hương đảnh lễ có chư tôn đức giáo
phẩm chứng minh BTS, Thường trực BTS GHPGVN tỉnh TT-Huế, chư tôn đức Tăng Ni
các ban ngành trực thuộc BTS, Tăng Ni các tổ đình, tự viện, thiền viện, tịnh
xá, tịnh thất cùng đông đảo bà con Phật tử các giới.
Tổ sư Liễu Quán sinh năm 1670, tại làng Bạch Mã,
huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, miền Trung nước Việt, trong một gia đình không
mấy được khá giả. Mồ côi mẹ khi ngài vừa lên sáu tuổi.
Năm 1682, được 12 tuổi, theo cha đi chùa Hội Tôn
lễ Phật, gặp thiền sư Tế Viên, ngài cảm mến và xin phụ thân xuất gia tại đây.
Ngài rất được thiền sư Tế Viên thương mến và hết lòng dạy dỗ. Những năm hành
điệu tại chùa Hội Viên, ngài chỉ làm những công việc nhỏ nhặt như gánh nước
cũng như hai thời khóa công phu và luật tiểu Sa di, ... Tu tập ở đây được chín
năm thì thiền sư Tế Viên viên tịch, ngài tròn 19 tuổi. Sau khi chu tất tang lễ
của thầy, ngài từ giả quý huynh đệ đồng tu ở đây rồi một mình lên đường tìm
thầy học đạo tiếp tục.
Năm 1690, vượt Trường sơn ra đất Thuận Hóa, đầu
sư với Tổ Giác Phong ở chùa Thiên Thọ, núi Hàm Long (tức Phật học đường Báo
Quốc bây giờ). Được một năm thì phụ thân thọ bệnh, ngài xin phép được trở về
nhà để săn sóc. Hàng ngày vào rừng lo đốn củi đổi gạo và thuốc men để chăm sóc
cho phụ thân. Bốn năm sau, phụ thân mãn phần, lo tang chay và giao hết nhà cửa
hương hỏa cho bà con quyến thuộc xong xuôi, ngài tiếp tục lên đường học đạo.
Hữu nhiễu bảo tháp
Năm 1695, nghe thiền sư Thạch Liêm tổ chức giới
đàn ở chùa Thiền Lâm, cố đô Huế, ngài xin cầu thọ Sa-di giới với đạo hiệu
thượng Liễu hạ Quán, húy Thiệt Diệu, thuộc dòng Lâm tế chánh tông đời thứ 35.
Năm 1697, thiền sư Từ Lâm làm Đàn đầu Hòa thượng,
ngài tròn 27 tuổi được tấn đàn Tỳ kheo giới. Đắc giới xong, ngài ở lại đây hai
năm để cầu học những giới pháp đã thọ chưa được thông suốt rồi lại tiếp tục
tham cầu Phật pháp với các bậc tôn sư khắp nơi.
Năm 1672, ngài gặp thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn
Tôn (tức tổ đình Từ Đàm bây giờ), ở núi Long sơn, cố đô Huế, Tổ Tử Dung dạy cho
ngài tham cứu câu thoại đầu :
“Vạn
pháp quy nhất, nhất quy hà xứ ?”.
Nghĩa là :
Muôn
pháp về một, một ấy đi về đâu ?
Từ câu thoại đầu này, làm cho ngài ngày đêm suy
nghĩ miên mang. Cuối cùng, ngài lại phải trở về chốn cũ Phú Yên để tịnh tu và
tham cứu cho được câu mà Tổ đã trao. Suốt năm năm liền mà vẫn chưa làm bung vỡ
được thâm ý của câu thoại đầu, lòng tự hổ thẹn. Một hôm, nhân đọc cuốn Truyền
Đăng Lục, khi đọc đến câu :
“Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hồi xứ”
Nghĩa là :
Chỉ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta
không hiểu nổi ; thoạt nhiên ngài tỏ ngộ và buông sách xuống với một tâm
niệm an lạc.
Lắng nghe lại hành trạng của Tổ sư
Năm 1708, ngài tìm ra núi Long Sơn để gặp Tổ Tử
Dung và trình bày ý của ngài cho Tổ rõ về công phu đã tu tập trong mấy năm qua.
Tổ bảo :
- “Hố thẳm buông tay,
Một mình cam chịụ,
Chết đi sống lại,
Ai dám chê mình ?”.
Ngài vỗ tay cười ha hả, Tổ liền nghiêm nét mặt,
nói :
- “Chưa được”.
Ngài nói :
- “Bình thùy nguyên thị thiết”
Nghĩa là :
Tari cân vốn là sắt,
Tổ lắc đầu :
Sáng hôm sau, Tổ thấy ngài đi ngang, liền gọi vào
và bảo :
- “Chuyện ngày hôm qua chưa xong, hôm nay hãy nói
lại xem sao”
Ngài đọc :
-“ Sớm biết đèn là lửa,
Cơm chín đã lâu rồi !”.
Tổ nghe xong lấy làm đẹp ý và hết lời khen ngợi.
Năm 1712, khi Tổ và ngài gặp nhau lần thứ ba nhân
cùng đi dự đại lễ Toàn Viện ở tỉnh Quảng Nam, ngài đem trình lên Tổ Tử Dung bài
kệ Tắm Phật. Tổ hỏi :
- “Tổ tổ tương truyền,
Phật Phật thọ thọ,
Vị thẩm truyền thọ cá thập ma ?”
Nghĩa là :
Tổ truyền cho Tổ,
Phật truyền cho Phật,
Chẳng hay các ngài truyền cho nhau cái gì ?
Ngài liền đáp :
- “Thạch duẫn trừu điều trường nhất trượng
Quy mao phủ phất trọng tam cân”.
Nghĩa là :
Búp măng trên đá dài một trượng
Cây chổi lông gà nặng ba cân.
Tổ dạy tiếp :
- “Cao cao sơn thượng hành thuyền,
Thâm thâm hải đề tẩu mã”.
Nghĩa là :
Chèo thuyền trên núi cao,
Cởi ngựa dưới đáy biển.
Ngài đáp :
“Chiết
giác nê ngưu triệt dạ hống,
Một huyền cầm tử tận nhật đàn”.
Nghĩa là :
Gãy sừng trâu đất rống thâu đêm,
Dây dứt đàn tranh chơi suốt sáng.
Đến đây thì Tổ Tử Dung rất bằng lòng về sự tu tập
của ngài.
Thành kính đảnh lễ trước bảo tháp Tổ sư
Hoằng hóa
độ sinh:
Ngài đắc pháp và được truyền tâm pháp vào lúc
ngài vừa 42 tuổi. Nếu thiền sư Chân Nguyên được xem là nhân vật chủ chốt để
phục hoạt Phật giáo ở Đàng Ngoài (Chúa Trịnh), thì Tổ Liễu Quán là
nhân vật quan trọng tiêu biểu cho công nghiệp phục hưng, xiển dương và trực
tiếp lãnh đạo Phật giáo ở đàng Trong (Chúa Nguyễn).
Trước sau, ngài đã gặp và tham khảo cũng như được
Tổ Tử Dung ấn chứng diệu pháp là ba lần:
- Lần thứ nhất năm 1702,
- Lần thứ hai năm 1708, lần này, Tổ Tử Dung ấn
chứng cho ngài về sự đạt ngộ chánh pháp của Phật và cũng là năm mà ngài khai
sáng tổ đình Thuyền Tôn.
- Lần thứ ba vào năm 1712 tại đất Quảng Nam khi Tổ
Tử Dung và ngài cùng dự lễ Toàn Viện, lần nầy ngài đã trình bài kệ Tắm Phật với
Tổ.
Ngài đã lập nhiều đạo tràng để truyền giáo như :
- Tổ đình Thuyền Tôn ở núi Thiên Thai, xóm Ngũ
Tây, huyện Hương Thủy vào năm 1708, nhưng mãi đến năm 1747, chúa Nguyễn Phúc
Khoát mới ban biển sắc tứ cho chùa nầy; đồng thời, Đại Hồng Chung đang được thờ
tại đây cũng được đúc cùng năm nầy, tức là năm Cảnh Hưng thứ tám.
- Tổ đình Viên Thông sau lưng núi Ngự Bình (Chúa
Nguyễn Phúc Khoát rất sùng kính uy đức và đạo hạnh của ngài, nhiều lần thỉnh
ngài vào kinh để tham vấn giáo lý, ngài đều từ chối, vì không muốn dính líu sự
lui tới ra vào với triều đình; do đó, chúa và quần thần hay vào tổ đình Viên
Thông để hỏi đạo, nên núi này có tên là núi Ngự).
- Tổ đình Hội Tôn, tổ đình Cổ Lâm và tổ đình Bửu
Tịnh ở Tuy Hòa, Phú Yên.
- Từ năm 1733 đến năm 1735, ngài đã mở liên tiếp
ba Đại giới đàn để truyền trao giới pháp cho hàng xuất gia và tại gia. Trong
những đại giới đàn này, ngài cung thỉnh các bậc Cao Tăng và tể quan cư sĩ ở Đế
đô để chứng minh và ngoại hộ cho Phật pháp.
- Năm 1740, ngài làm Đàn đầu Hòa thượng cho Đại
giới đàn Long Hoa ở tổ đình Thuyền Tôn.
- Năm 1742, lúc này ngài đã 72 tuổi, vì sự nghiệp
Phật pháp, ngài lại phải làm Đàn đầu Hòa thượng cho Đại giới đàn tại tổ đình
Viên Thông và có đến gần bốn ngàn người tại gia cũng như xuất gia phát nguyện
thọ giới.
Từ rạng sáng, mặc dù thời tiết rất lanh, chư Tăng Ni, Phật tử đã đến tảo tháp
Một buổi sáng đẹp trời mùa đông năm 1742, nhằm
ngày 21 tháng 11 âm lịch, tại tổ đình Viên Thông, ngài dạy đồ chúng đem bút mực
ra để viết bài kệ như sau:
Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung
thông,
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn mang vấn tổ tông ?
Nghĩa là :
Ngoài bảy mươi năm trong thế
giới,
Không không, sắc sắc đã dung
thông,
Hôm nay nguyện mãn về chốn cũ,
Nào phải ân cần hỏi tổ tông?
Sau khi, ngài làm bài kệ xong, dùng trà thì Đại
chúng đảnh lễ và đứng hầu quanh ngài. Trong chúng có vị khóc thành tiếng, ngài
dạy :
- “Quý vị đừng khóc. Chư Phật thị hiện còn nhập
niết bàn, còn tôi (tức là ngài Liễu Quán) thì đường đi nẻo về đã rõ ràng, không
việc gì mà phải khóc ...”
Mọi người đều im lặng. Ngài căn dặn và tâm sự
cùng đồ chúng một hồi lâu, ngài hỏi :
- “Đã đến giờ Mùi chưa ?”.
Chúng đáp :
- Dạ, vừa đúng.
Ngài dạy :
- “Sau khi tôi đã đi rồi, quý vị phải nghỉ đến sự
vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí huệ, chớ nên quên
lời dặn của tôi.”.
Ngài dặn dò xong, thân ngồi kiết già và nhắm mắt
thị tịch. Chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc làm bia ký và dựng tháp phụng thờ ngài
trên núi Thiên Thai cạnh tổ đình Thuyền Tôn, xóm Ngũ Tây với thụy hiệu :
Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng.
Tháp của ngài được xây gần tổ đình Thuyền Tôn,
trên núi Thiên Thai.
Trước khi ngài viên tịch, ngài phú pháp cho hàng đệ tử và truyền kệ như sau:
Thiệt tế đại đạo,
Tánh hải thanh trừng,
Tâm nguyên quảng nhuận,
Đức bổn từ phong,
Giới định phước tuệ,
Thể dụng viên thông,
Vĩnh siêu trí quả,
Mật khế thành công,
Truyền trì diệu lý,
Diễn xướng chánh tông,
Hành giải tương ưng,
Đạt ngộ chơn không.
Tổ sư Liễu Quán đã làm cho thiền phái Lâm Tế trở
thành một tông phái đặc thù và linh động, có một nền móng vững chắc ở đàng
trong (tức là từ Thanh hóa trở vào). Trước khi Tổ Liễu Quán xuất hiện, thiền
phái Lâm Tế ảnh hưởng của Trung quốc (vì có ngài
Nguyên Thiều, ngài Thạch Liêm, ngài Tử Dung, v.v..). Chính
Tổ Liễu Quán đã Việt hóa tất cả từ văn hóa, kiến trúc và nghi lễ, v.v...
Ngài có bốn vị đệ tử lớn: Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế
Nhân và Từ Chiếu.
(Từ Chiếu, húy Tế Căn. Khai sơn chùa Hồ Sơn ; Tuy
Hòa, Phú Yên )
Bốn ngài này đã tạo lập bốn trung tâm hoằng dương
chánh pháp lớn lao khắp đó đậy ở đàng Trong. Và, từ thế kỷ thứ 18 trở về sau này
nghiễm nhiên với danh xưng Thiền Phái Liễu Quán.
(Tiểu sử của Tổ sư Liễu Quán được dẫn lại từ các tài liệu truyền thống của PG Huế)