Ông sinh sinh 1-6-1941, là một nhà thơ, nhà văn, triết gia, dịch giả, giáo sư và cư sĩ Phật giáo người Việt Nam
với pháp danh Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề
triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng
dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít
người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ.
Ông đến với văn chương từ rất sớm. Từ năm 13 tới 16 tuổi, ông là cộng
tác viên của tạp chí Bách Khoa. Năm 15 tuổi, ông đã đọc thông viết thạo
năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tếng
Sancrit và tiếng La Tinh.
Năm 1960, ông khởi sự viết cuốn "Ý thức mới trong văn nghệ và triết
học" khi chưa được 19 tuổi. Thời kỳ này ông viết nhiều sách về Phật
giáo, dù ông theo đạo cơ đốc.
Năm 18 tuổi, giữ chức giảng viên môn Triết học của Viện Đại học Vạn
Hạnh. Về sau ông còn là giáo sư của nhiều trường đại học khác nữa dù
chưa bao giờ đi thi tú tài, cũng chưa học một trường đại học nào.
Năm 23 tuổi, ông cho ra đời cuốn sách Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền Tông,
mà sau đó đã trở nên nổi tiếng. Đến năm 26 tuổi, ông đã có hàng chục
cuốn sách triết học, tiểu luận và thơ. Ông cũng khởi xướng và tham gia
tranh luận nhiều về đề tài Phật giáo trên các báo Sài Gòn.
Đầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng sau một cuộc
"khủng hoảng tinh thần". Tại đây ông quy y ở chùa Hải Đức, lấy pháp danh
Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn.
Từ năm 1966 - 1968, ông là Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình
giảng dạy cho tất cả phân khoa viện Đại học Vạn Hạnh. Từ năm 1968 -
1970, giữ chức trưởng khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện. Tại
đây ông cũng là sáng lập viên và chủ trương biên tập của tạp chí Tư
Tưởng.
Ông rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở Israel, Đức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Tại đây ông lấy vợ người Pháp và làm Giáo sư triết học Tây phương của viện đại học Toulouse.
Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, giữ chức giáo sư Phật Giáo viện College of Buddhist Studies.
Từ đó tới nay, ông ở Mỹ và tiếp tục viết sách - phần lớn là nghiên cứu về đạo Phật.
* Tác phẩm đã xuất bản của Giáo sư Phạm Công Thiện: Tiểu luận
về Bồ Ðề Ðạt Ma, tổ sư Thiền tông (1964); Ý thức mới trong văn nghệ và
triết học (1965); Ngày sinh của rắn (1967); Trời tháng Tư (1966); Im
lặng hố thẳm (1967); Hố thẳm của tư tưởng (1967); Mặt Trời không bao giờ
có thực (1967); Bay đi những cơn Mưa Phùn (1970); Ði cho hết một đêm
hoang vu trên mặt đất (1988); Sự chuyển động toàn diện của tâm thức
trong tư tưởng Phật Giáo (1994); Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im
lặng; Triết lý Việt Nam
về sự vượt biên (1995); Làm thế nào để trở thành một bậc Bồ Tát; Sáng
rực khắp bốn phương Trời (1998); Tinh tuý trong sáng của đạo lý Phật
Giáo (1998); Trên tất cả đỉnh cao là Im Lặng; Một đêm siêu hình với Hàn
Mặc Tử; Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu: Triết học là gì?; Ðối mặt với
1000 năm cô đơn của Nietzche;
* Dịch phẩm đã xuất bản: Jiddu Krishnamurti, Tự do đầu tiên và
cuối cùng (1968); Martin Heidegger, Về thể tính của chân lý
(1968); Martin Heidegger, Triết lý là gì? (1969); Friedrich Nietzsche,
Tôi là ai? Đây là người mà chúng ta mong đợi! (1969); Nikos Kazantzakis,
Rèn luyện tâm thuật huyền linh (1991).... (Theo vi.wikipedia.org) |