Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        14  
        năm  
        10  
        tuổi
 
         
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        14,  
        tên  
        thật  
        là  
        Tenzin  
        Gyatso,  
        là  
        một  
        nhà  
        lãnh  
        đạo  
        thế  
        quyền  
        và  
        giáo  
        quyền  
        của  
        nhân  
        dân  
        Tây  
        Tạng.  
        Ngài  
        chào  
        đời  
        tại  
        làng  
        Taktser,  
        vùng  
        Đông  
        Bắc   
        Tây  
        Tạng  
        vào  
        ngày  
        6  
        tháng  
        7  
        năm  
        1935  
        (Ất  
        Hợi)  
        trong  
        một  
        gia  
        đình  
        nông  
        dân.  
        Ngài  
        được  
        thừa  
        nhận  
        là  
        Dalai  
        Lama  
        vào  
        năm  
        2  
        tuổi  
        theo  
        truyền  
        thống  
        Tây  
        Tạng  
        như  
        là  
        hóa  
        thân  
        của  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        13,  
        cũng  
        là  
        hiện  
        thân  
        của  
        Đức  
        Quán  
        Thế  
        Âm  
        (Avalokitesvara),  
        một  
        vị  
        Bồ  
        tát  
        của  
        lòng  
        từ. 
 
        Theo  
        truyền  
        thống  
        của  
        người  
        Tây  
        Tạng,  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        là  
        hiện  
        thân  
        lòng  
        từ  
        của  
        chư  
        Phật  
        và  
        Bồ  
        tát,  
        người  
        chọn  
        con  
        đường  
        tái  
        sinh  
        trở  
        lại  
        kiếp  
        người  
        để  
        cứu  
        giúp  
        chúng  
        sanh.  
        Dalai  
        Lama,  
        nghĩa  
        là  
        "Người  
        bảo  
        vệ  
        đức  
        tin"  
        (Defender  
        of  
        the  
        Faith),  
        "Biển  
        lớn  
        của  
        trí  
        tuệ"  
        (Ocean  
        of  
        Wisdom),  
        "Vua  
        của  
        Chánh  
        Pháp"  
        (King  
        of  
        Dharma),   
        Viên  
        bảo  
        châu  
        như   
        ý  
        (Wishfulfilling  
        Gem)..... 
 
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        được  
        tấn  
        phong  
        tước  
        vị  
        Dalai  
        Lama  
        vào  
        ngày  
        22  
        tháng  
        2  
        năm  
        1940  
        tại  
        Lhasa,  
        thủ  
        đô  
        của  
        Tây  
        Tạng,  
        chính  
        thức  
        là  
        người  
        lãnh  
        đạo  
        chính  
        trị  
        và  
        tôn  
        giáo  
        cho  
        6  
        triệu  
        người  
        Tây  
        Tạng. 
 
         
        1.  
        Quá  
        trình  
        tìm  
        kiếm  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma:
 
        Khi  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        13  
        viên  
        tịch  
        vào  
        năm  
        1933,  
        chính  
        phủ  
        Tây  
        Tạng  
        gặp  
        khủng  
        hoảng  
        trong  
        việc  
        tìm  
        kiếm  
        một  
        người  
        thừa  
        kế.  
        Năm  
        1935,  
        vị  
        nhiếp  
        chính  
        đi  
        đến  
        hồ  
        thiêng  
        Lhamo  
        Lhatso  
        ở  
        Chokhorgyal,  
        khoảng  
        90  
        dặm  
        từ  
        thủ  
        đô  
        Lhasa.  
        Theo  
        truyền  
        thống  
        của  
        Tây  
        Tạng,  
        người  
        ta  
        có  
        thể  
        nhìn  
        thấy  
        mọi  
        việc  
        ở  
        tương  
        lai  
        từ  
        hồ  
        thiêng  
        (Holy  
        lake)  
        này.  
        Lúc  
        bấy  
        giờ  
        vị  
        nhiếp  
        chính  
        thấy  
        ba  
        chữ  
        Tây  
        Tạng  
        Ah,  
        Ka  
        và  
        Ma  
        hiện  
        lên  
        giữa  
        mặt  
        nước  
        trong  
        vắt  
        của  
        hồ  
        thiêng,  
        theo  
        sau  
        ba  
        mẫu  
        tự  
        này  
        là  
        bức  
        tranh  
        của  
        một  
        ngôi  
        chùa  
        ba  
        tầng  
        với  
        mái  
        ngói  
        màu  
        xanh  
        lục  
        và  
        một  
        căn  
        nhà  
        có  
        chiếc  
        máng  
        xối  
        kỳ  
        lạ. 
 
        Năm  
        1937,  
        chính  
        phủ  
        Tây  
        Tạng  
        đã  
        gởi  
        những  
        hình  
        ảnh  
        thiêng  
        liêng  
        ấy  
        từ  
        hồ  
        thiêng  
        đến  
        các  
        tỉnh  
        thành  
        của  
        Tây  
        Tạng  
        để  
        tìm  
        kiếm  
        nơi  
        tái  
        sinh  
        của  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma.  
        Một  
        phái  
        đoàn  
        tìm  
        kiếm  
        tái  
        sanh  
        được  
        thành  
        lập  
        và  
        đi  
        về  
        hướng  
        Đông  
        Bắc  
        Tây  
        Tạng,  
        vị  
        trưởng  
        phái  
        đoàn  
        là  
        Lạt  
        ma  
        Kewtsang  
        Rinpoche,  
        Tu  
        viện  
        trưởng  
        Tu  
        viện  
        Sera.  
        Khi  
        phái  
        đoàn  
        đến  
        làng  
        Amdo,  
        họ  
        thấy  
        quang  
        cảnh  
        nơi  
        này  
        giống  
        y  
        như  
        hình  
        ảnh  
        đã  
        thấy  
        dưới  
        hồ  
        thiêng.  
        Lobsang  
        Tsewang  
        cải  
        trang  
        thành  
        người  
        trưởng  
        đoàn,  
        và  
        Lạt  
        ma  
        Kewtsang  
        cải  
        trang  
        thành  
        người  
        thị  
        giả  
        và  
        họ  
        vào  
        thăm  
        một  
        căn  
        nhà  
        với  
        chiếc  
        máng  
        xối  
        kỳ  
        lạ.  
        Bấy  
        giờ  
        Lạt  
        ma  
        Kewtsang  
        có  
        mang  
        một  
        xâu  
        chuỗi  
        (rosary)  
        của  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        13  
        và  
        chú  
        bé  
        trong  
        căn  
        nhà  
        ấy  
        đã  
        nhận  
        ra  
        nó  
        và  
        yêu  
        cầu  
        được  
        cầm  
        xem.  
        Lạt  
        Ma  
        Kewtsang  
        hứa  
        sẽ  
        cho  
        nếu  
        chú   
        đoán  
        được  
        ngài  
        là  
        ai.  
        Và  
        chú  
        bé  
        liền  
        trả  
        lời  
        ngay  
        bằng  
        một  
        loại  
        tiếng  
        lóng  
        của  
        địa  
        phương  
        là  
        "Sera  
        aga'',  
        nghĩa  
        là  
        ''Lạt  
        ma  
        ở  
        tu  
        viện  
        Sera".  
        Tiếp  
        đó,  
        Ngài  
        hỏi  
        chú  
        bé  
        vị  
        trưởng  
        đoàn  
        là  
        ai  
        và  
        chú  
        bé  
        đã  
        trả  
        lời  
        đúng;  
        chú  
        cũng  
        cho  
        biết  
        tên  
        chính  
        xác  
        tên  
        của  
        người  
        thị  
        giả.  
        Theo  
        sau  
        đó  
        là  
        một  
        loạt  
        trắc  
        nghiệm  
        khác  
        để  
        chú  
        bé  
        chọn  
        lựa  
        những  
        đồ  
        dùng  
        thường  
        ngày  
        của  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        13  
        và  
        chú  
        bé  
        cũng  
        nhận  
        ra  
        tất  
        cả  
        và  
        nói:  
        ''của  
        tôi,  
        của  
        tôi".  
        Chú  
        bé  
        ấy  
        chính  
        là  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        hiện  
        nay. 
 
        Từ  
        những  
        kết  
        quả  
        của  
        cuộc  
        kiểm  
        tra  
        này  
        giúp  
        họ  
        đoán  
        chắc  
        rằng  
        họ  
        đã  
        tìm  
        ra  
        hóa  
        thân  
        mới  
        và  
        niềm  
        tin  
        của  
        họ  
        càng  
        được  
        vững  
        mạnh  
        thêm  
        bởi  
        những  
        ý  
        nghĩa  
        từ  
        ba  
        mẫu  
        tự  
        Tây  
        Tạng  
        đã  
        từng  
        thấy  
        dưới  
        hồ  
        thiêng:  
        Ah  
        là  
        hàm  
        nghĩa  
        cho  
        tỉnh  
        lmdo,  
        nơi  
        chú  
        bé  
        chào  
        đời,   
        Ka  
        là  
        chỉ  
        cho  
        Tu  
        viện  
        Kumbum,  
        một  
        ngôi  
        Tu  
        viện  
        lớn  
        nhất  
        với  
        ba  
        tầng  
        gần  
        nhà  
        của  
        chú  
        bé  
        và  
        Ma  
        là  
        ám  
        chỉ  
        cho  
        ngôi  
        tu  
        viện  
        Karma  
        Rolpai  
        Dorje  
        ở  
        trên  
        ngọn  
        núi  
        của  
        ngôi  
        làng  
        gần  
        bên.  
        Cuối  
        cùng  
        phái  
        đoàn  
        quyết  
        định  
        chú  
        bé  
        ấy  
        là  
        hậu  
        thân  
        của  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        13. 
 
         
        2.  
        Tu  
        học  
        tại  
        Tây  
        Tạng  
        :
 
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        bắt  
        đầu  
        sự  
        nghiệp  
        học  
        vấn  
        của  
        mình  
        vào  
        năm  
        6  
        tuổi  
        và  
        hoàn  
        tất  
        học  
        vị  
        cao  
        nhất  
        của  
        PG  
        Tây  
        Tạng  
        là  
        Geshe  
        Lharampa,  
        tương  
        đương  
        với  
        Tiến  
        sĩ  
        triết  
        học  
        Phật  
        giáo  
        (Doctorate  
        of  
        Buddhist  
        Philosophy)  
        ở  
        tuổi  
        25  
        vào  
        năm  
        1959.  
        Năm  
        24  
        tuổi,  
        Ngài  
        đã  
        tham  
        dự  
        kỳ  
        thi  
        đầu  
        tiên  
        tại  
        các  
        đại  
        học  
        Phật  
        giáo  
        Drepung,  
        Sera  
        và  
        Ganden.  
        Kỳ  
        thi  
        cuối  
        cùng  
        được  
        tổ  
        chức  
        tại   
        Jokhang,  
        thủ  
        đô  
        Lhasa  
        trong  
        thời  
        gian  
        lễ  
        hội   
        Monlam,  
        tháng  
        giêng  
        theo  
        lịch  
        Tây  
        Tạng. 
 
         Trước  
        đó  
        Ngài  
        phải  
        học  
        tất  
        cả  
        các  
        môn  
        học  
        chính  
        như   
        Luận  
        lý  
        (Logic)  
        văn  
        hóa  
        và  
        nghệ  
        thuật  
        Tây  
        Tạng  
        (Culture  
        &  
        Tibetan  
        Art),  
        Phạn  
        ngữ  
        (Sanskrit),  
        Y  
        học  
        (Medicine),  
        Triết  
        học  
        Phật  
        giáo  
        (Buddhist  
        philosophy).  
        Riêng  
        môn  
        Phật  
        học  
        này  
        là  
        khó  
        nhất,  
        được  
        chia  
        ra  
        làm  
        năm  
        phần  
        là  
        Bát  
        nhã  
        (Prajnaparamita),  
        Trung  
        quán  
        luận  
        (Madhyamika),  
        Giới  
        luật  
        (Vinaya),  
        Luận  
        A  
        Tỳ  
        Đạt  
        Ma  
        (Abidharma)  
        và  
        Nhân  
        minh  
        luận  
        (Pramana)  
        .  
        Và  
        các  
        môn  
        học  
        phụ  
        khác  
        là:  
        biện  
        luận  
        (dialetics),  
        thơ  
        ca  
        (poetry),  
        âm  
        nhạc  
        (music)  
        và  
        kịch  
        nghệ  
        (drama),  
        thiên  
        văn  
        (astrology),  
        văn  
        phạm  
        (metre  
        and  
        phraseing  
        ). 
 
         
        3.  
        Vai  
        trò  
        và  
        trách  
        nhiệm  
        lãnh  
        đạo  
        :
 
        Vào  
        ngày  
        17  
        tháng  
        11  
        năm  
        1950,  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        đã  
        khoác  
        lên  
        mình  
        một  
        trọng  
        trách  
        là  
        người  
        lãnh  
        đạo  
        thế  
        quyền  
        của  
        người  
        dân  
        Tây  
        Tạng  
        (head  
        of  
        the  
        State  
        and  
        Government)  
        sau  
        khi  
        có  
        khoảng   
        80.000  
        quân  
        lính  
        của  
        Trung  
        Quốc  
        tấn  
        công  
        vào  
        Tây  
        Tạng. 
 
        Năm  
        1954,  
        Ngài  
        đã  
        đến  
        Bắc  
        kinh  
        để  
        thương  
        thuyết  
        hòa  
        bình  
        với  
        chủ  
        tịch  
        Mao  
        Trạch  
        Đông  
        (Mao  
        Tse-tung)  
        và  
        những  
        nhà  
        lãnh  
        đạo  
        Trung  
        Hoa  
        khác,  
        gồm  
        Chu  
        Ân  
        Lai  
        (Chou  
        En-lai)  
        và  
        Đặng  
        Tiểu  
        Bình  
        (Deng  
        Xiaoping).  
        Tuy  
        nhiên,  
        các  
        cuộc  
        đàm  
        phán  
        trong  
        chuyến  
        đi  
        này  
        không  
        mang  
        lại  
        kết  
        quả,  
        cuối  
        cùng  
        Ngài  
        đã  
        quyết  
        định  
        muốn  
        cứu  
        vãn  
        cho  
        Tây  
        Tạng  
        Ngài  
        phải  
        ra  
        nước  
        ngoài. 
 
         
        4.  
        Đào  
        thoát  
        khỏi  
        Tây  
        Tạng  
        :
 
        Với  
        nỗ  
        lực  
        mang  
        lại  
        một  
        giải  
        pháp  
        hòa  
        bình  
        của  
        Ngài  
        cho  
        người  
        dân  
        Tây  
        Tạng  
        đã  
        bị  
        cản  
        trở  
        bởi  
        một  
        chính  
        sách  
        tàn  
        bạo  
        của  
        nhà  
        cầm  
        quyền  
        Bắc  
        Kinh,  
        trong  
        khi  
        đó    
        ở  
        miền  
        Đông  
        Tây  
        Tạng  
        dân  
        chúng  
        đã  
        đứng  
        lên  
        kháng  
        cự  
        mạnh  
        mẽ   
        đối  
        với  
        sự  
        đàn  
        áp  
        của  
        Trung  
        Hoa.  
        Sự  
        kháng  
        cự  
        này  
        đã  
        lan  
        ra  
        trên  
        nhiều  
        tỉnh  
        thành  
        của  
        Tây  
        Tạng.  
        Vào  
        ngày  
        10  
        tháng  
        3  
        năm  
        1959,  
        một  
        cuộc  
        biểu  
        tình  
        lớn  
        nhất  
        trong  
        lịch  
        sử  
        của  
        Tây  
        Tạng  
        tại  
        thủ  
        đô  
        Lhasa  
        để  
        kêu  
        gọi  
        binh  
        lính  
        Trung  
        Quốc  
        phải  
        rút  
        khỏi  
        Tây  
        Tạng  
        và  
        tái  
        xác  
        định  
        rằng  
        Tây  
        Tạng  
        là  
        một  
        quốc  
        gia  
        độc  
        lập.  
        Cuộc  
        biểu  
        tình  
        ôn  
        hòa  
        này  
        đã  
        bị  
        bẻ  
        gãy  
        một  
        cách  
        tàn  
        nhẫn  
        của  
        quân  
        đội  
        điên  
        cuồng  
        của  
        Hoa  
        Lục.  
        Kết  
        quả  
        của  
        cuộc  
        xâm  
        lăng  
        này  
        đã  
        giết  
        chết  
        hàng  
        triệu  
        người  
        Tây  
        Tạng  
        vô  
        tội  
        và  
        phá  
        hủy  
        6  
        triệu  
        chùa  
        chiền  
        tại  
        đất  
        nước  
        này.  
        Để  
        tìm  
        con  
        đường  
        giải  
        phóng  
        nỗi  
        khổ  
        đau  
        ấy,  
        80.000  
        người  
        dân  
        Tây  
        Tạng  
        cùng  
        với  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        vượt  
        qua  
        dãy  
        Hy  
        Mã  
        Lạp  
        Sơn  
        để  
        đến  
        tị  
        nạn  
        tại  
        miền  
        bắc  
        Ấn  
        Độ  
        vào  
        năm  
        1959. 
 
         
        5.  
        Chính  
        phủ  
        lưu  
        vong  
        tại  
        Dharamsala,  
        miền  
        Bắc  
        Ấn  
        Độ  
        :
 
        Ngày  
        nay,  
        với  
        hơn  
        120.000  
        người  
        Tây  
        Tạng  
        lưu  
        trú  
        tại  
        vùng  
        đất  
        Dharamsala,  
        Ấn  
        Độ,  
        được  
        biết  
        như  
        là  
        một  
        ''Lhasa  
        nhỏ",  
        lập  
        thành  
        một  
        chính  
        quyền  
        lưu  
        vong  
        Tây  
        Tạng  
        với  
        một  
        Hội  
        Đồng  
        Dân  
        Cử  
        Tây  
        Tạng  
        (Commission  
        of  
        Tibetan  
        People's  
        Deputies)  
        vào  
        năm  
        1960. 
 
        Trong  
        những  
        năm  
        đầu  
        lưu  
        vong,    
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        đã  
        kêu  
        gọi  
        Hoa  
        Kỳ  
        lên  
        tiếng  
        về  
        vấn  
        đề  
        của  
        Tây  
        Tạng,  
        kết  
        quả  
        ba  
        quyết  
        nghị  
        đã  
        được  
        thông  
        qua  
        tại  
        Hội  
        Đồng  
        lập  
        Pháp  
        của  
        Hoa  
        Kỳ  
        vào  
        năm  
        1959,  
        1961  
        và  
        năm  
        1965,  
        kêu  
        gọi  
        nhà  
        cầm  
        quyền  
        Bắc  
        Kinh  
        phải  
        tôn  
        trọng  
        nhân  
        quyền  
        của  
        người  
        Tây  
        Tạng  
        và  
        ước  
        muốn  
        tự  
        trị  
        của  
        họ.  
        Với  
        việc  
        thành  
        lập  
        một  
        chính  
        phủ  
        lưu  
        vong  
        Tây  
        Tạng,  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thấy  
        rằng  
        công  
        việc  
        khẩn  
        cấp  
        phải  
        làm  
        là  
        cứu  
        nguy  
        dân  
        tị  
        nạn  
        và  
        nền  
        văn  
        hóa  
        của  
        Tây  
        Tạng.   
        Các  
        lĩnh  
        vực  
        nông  
        nghiệp,  
        kinh  
        tế,  
        văn  
        hóa,  
        giáo  
        dục  
        đã  
        dần  
        được  
        tái  
        hoạt  
        động  
        tại  
        Ấn  
        Độ.  
        Trẻ  
        em  
        Tây  
        Tạng  
        được  
        đi  
        học  
        và  
        một  
        Trường  
        đại  
        học  
        Tây  
        Tạng  
        được  
        thành  
        lập  
        tại  
        Ấn  
        Độ.  
        Có  
        khoảng  
        200  
        tu  
        viện  
        Tây  
        Tạng  
        được  
        xây  
        dựng  
        tại  
        Ấn  
        để  
        Tăng  
        chúng  
        tu  
        học,  
        duy  
        trì  
        và  
        bảo  
        vệ  
        văn  
        hóa  
        và  
        tôn  
        giáo  
        của  
        Tây  
        Tạng. 
 
        Năm  
        1963,  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        đã  
        ban  
        hành  
        một  
        hiến  
        pháp  
        dân  
        chủ  
        (democratic  
        constitution)  
        hoàn  
        toàn  
        dựa  
        trên  
        giới  
        luật  
        của  
        nhà  
        Phật  
        và  
        bản  
        hiến  
        chương  
        nhân  
        quyền  
        của  
        LHQ  
        để  
        biên  
        soạn  
        và  
        chuẩn  
        bị  
        cho  
        một  
        mô  
        hình  
        đất  
        nước  
        Tây  
        Tạng  
        tự  
        do  
        ở  
        tương  
        lai. 
 
        Năm  
        1965,  
        Ngài  
        đến  
        tham  
        dự  
        đại  
        lễ  
        Phật  
        Đản  
        Phật  
        lịch  
        2500  
        tại  
        Ấn  
        Độ,  
        đã  
        gặp  
        được  
        Thủ  
        tướng  
        Ấn   
        ông  
        Nehru  
        và  
        ông  
        Chu  
        Ân  
        Lai,  
        đàm  
        phán  
        về  
        vấn  
        đề  
        của  
        Tây  
        Tạng. 
 
        Ngày  
        nay,  
        thành  
        viên  
        của  
        quốc  
        hội  
        Tây  
        Tạng  
        sẽ  
        được  
        bầu  
        cử  
        bởi  
        dân  
        chúng.  
        Hội  
        đồng  
        nội  
        các  
        được  
        bầu  
        cử  
        bởi  
        quốc  
        hội.  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        nhấn  
        mạnh  
        rằng  
        nhiệm  
        vụ  
        chính  
        của  
        chính  
        quyền  
        Tây  
        Tạng  
        là  
        chăm  
        lo  
        cho  
        đời  
        sống  
        người  
        dân  
        và  
        Ngài  
        cũng  
        nói  
        thêm,  
        khi  
        Tây  
        Tạng  
        giành  
        lại  
        nền  
        độc  
        lập,  
        Ngài  
        sẽ  
        không  
        còn  
        ngồi  
        ở  
        văn  
        phòng  
        chính  
        phủ    
        nữa. 
 
        Năm  
        1987,  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        tham  
        dự  
        một  
        hội  
        nghị  
        nhân  
        quyền  
        tại  
        thủ  
        đô  
        Washington,  
        Hoa  
        Kỳ.  
        Ngài  
        đề  
        xuất  
        một  
        Chương  
        Trình  
        Hòa  
        Bình  
        Năm  
        Điểm  
        (A  
        Five-Point  
        Peace  
        Plan)    
        bao  
        gồm,  
        1)  
        Biến  
        Tây  
        Tạng  
        thành  
        một  
        khu  
        vực  
        hòa  
        bình;  
        2)  
        Chấm  
        dứt  
        việc  
        di  
        dân  
        Trung  
        Hoa  
        đang  
        de  
        dọa  
        sự  
        tồn  
        tại  
        của  
        dân  
        tộc  
        Tây  
        Tạng;  
        3)  
        Tôn  
        trọng  
        các  
        quyền  
        dân  
        chủ,  
        tự  
        do  
        và  
        quyền  
        làm  
        người  
        của  
        dân  
        Tây  
        Tạng;  
        4)  
        Phục  
        hồi  
        và  
        bảo  
        vệ  
        môi  
        sinh  
        của  
        Tây  
        Tạng  
        và  
        chấm  
        dứt  
        việc  
        sử  
        dụng  
        đất  
        Tây  
        Tạng  
        để  
        sản  
        xuất  
        vũ  
        khí  
        nguyên  
        tử  
        và  
        bỏ  
        đồ  
        phế  
        thải  
        nguyên  
        tử;  
        và  
        5)  
        Khởi  
        sự  
        thương  
        thảo  
        ngay  
        về  
        quy  
        chế  
        tương  
        lai  
        của  
        Tây  
        Tạng  
        và  
        bang  
        giao  
        giữa  
        Tây  
        Tạng  
        với  
        Trung  
        Hoa. 
 
        Ngày  
        15  
        tháng  
        6  
        năm  
        1988,  
        tại  
        Strasbourg,  
        Pháp  
        quốc,  
        Ngài  
        nhắc  
        lại  
        Chương  
        Trình  
        Hòa  
        Bình  
        Năm  
        Điểm  
        và  
        yêu  
        cầu  
        nhà  
        cầm  
        quyền  
        Bắc  
        kinh  
        trao  
        trả  
        lại  
        nền  
        độc  
        lập  
        cho  
        Tây  
        Tạng.  
        Ngày  
        9  
        tháng  
        10  
        năm  
        1991,  
        trong  
        khi  
        phát  
        biểu  
        tại  
        đại  
        học  
        Yale,  
        Hoa  
        Kỳ,  
        Ngài  
        bày  
        tỏ  
        ý  
        định  
        muốn  
        trở  
        về  
        thăm  
        Tây  
        Tạng  
        để  
        đích  
        thân  
        đánh  
        giá  
        tình  
        hình  
        chính  
        trị  
        nơi  
        ấy.  
        Ngài  
        nói:  
        ''Tôi  
        thật  
        sự  
        lo  
        lắng  
        vì  
        tình  
        cảnh  
        bạo  
        động  
        có  
        lẽ  
        sẽ  
        bùng  
        nỗ.  
        Tôi  
        muốn  
        làm  
        cái  
        gì  
        đó  
        để  
        chận  
        đứng  
        lại...  
        chuyến  
        viếng  
        thăm  
        của  
        tôi  
        sẽ  
        là  
        một  
        cơ  
        hội  
        mới  
        để  
        làm  
        tăng  
        thêm  
        sự  
        cảm  
        thông  
        và  
        tạo  
        ra  
        một  
        nền  
        tảng  
        để  
        giải  
        quyết''. 
 
         
        6.  
        Các  
        giải  
        thưởng  
        :
 
        Từ  
        chuyến  
        viếng  
        thăm  
        phương  
        Tây  
        đầu  
        tiên  
        của  
        Ngài  
        vào  
        năm1973,  
        một  
        số  
        trường  
        đại  
        học  
        và  
        viện  
        nghiên  
        cứu  
        đã  
        trao  
        tặng  
        Ngài  
        những  
        Giải  
        thưởng  
        về  
        Hòa  
        bình  
        (Peace  
        Award)  
        và  
        Bằng  
        Tiến  
        sĩ  
        danh  
        dự  
        (honorary  
        Doctorate  
        Degree)  
        để  
        tuyên  
        dương  
        những  
        tác  
        phẩm  
        xuất  
        sắc  
        của  
        Ngài  
        viết  
        về  
        triết  
        học  
        Phật  
        giáo,  
        giải  
        pháp  
        cho  
        những  
        xung  
        đột  
        của  
        quốc  
        tế,  
        vấn  
        đề  
        nhân  
        quyền  
        và  
        môi  
        sinh  
        toàn  
        cầu.  
        Trong  
        lần  
        trao  
        giải  
        thưởng  
        cho  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        tại  
        Ủy  
        Hội  
        Nhân  
        quyền  
        Raoul  
        Wallenberg,  
        dân  
        biểu  
        Mỹ  
        ông  
        Tom  
        Lantos  
        đã  
        nói:  
        "sự  
        đấu  
        tranh  
        dũng  
        cảm  
        của  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        đã  
        tạo  
        ra  
        một  
        sự  
        chú  
        ý  
        đặc  
        biệt  
        về  
        nhân  
        quyền  
        và  
        hòa  
        bình  
        thế  
        giới.  
        Sự  
        kiên  
        trì  
        đấu  
        tranh  
        của  
        Ngài  
        để  
        chấm  
        dứt  
        khổ  
        đau  
        cho  
        dân  
        tộc  
        Tây  
        Tạng  
        qua  
        những  
        cuộc  
        đàm  
        phán  
        hòa  
        bình  
        và  
        hòa  
        giải". 
 
         
        7.  
        Giải  
        thưởng  
        Nobel  
        Hòa  
        Bình  
        năm  
        1989  
        :
 
        Ủy  
        ban  
        Hòa  
        Bình  
        Na  
        Uy  
        quyết  
        định  
        trao  
        tặng  
        Giải  
        thưởng  
        Nobel  
        Hòa  
        Bình  
        (Peace   
        Prize)  
        cho  
        Ngài  
        vào  
        năm  
        1989  
        sau  
        khi  
        được  
        cả  
        thế  
        giới  
        tán  
        dương  
        và  
        tán  
        thành,  
        ngoại
 
        
 
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        lãnh  
        giải  
        thưởng  
        Nobel  
        Hòa  
        bình  
        năm  
        1989
 
         
 
        trừ  
        Trung  
        Hoa.  
        Trong  
        quyết  
        định  
        ấy  
        có  
        đoạn  
        viết:  
        "Ủy  
        ban  
        muốn  
        nhấn  
        mạnh  
        rằng  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        với  
        sự  
        đấu  
        tranh  
        cho  
        tự  
        do  
        cho  
        Tây  
        Tạng  
        vẫn  
        kiên  
        quyết  
        không  
        sử  
        dụng  
        bạo  
        lực.  
        Ngài  
        đã  
        ủng  
        hộ  
        giải  
        pháp  
        hòa  
        bình  
        dựa  
        trên  
        tinh  
        thần  
        khoan  
        dung  
        và  
        tôn  
        trọng  
        lẫn  
        nhau  
        để  
        bảo  
        vệ  
        lịch  
        sử  
        và  
        tài  
        sản  
        văn  
        hóa  
        của  
        con  
        người''. 
 
         
        Vào  
        ngày  
        10  
        tháng  
        12  
        năm  
        1989,  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        đã  
        tiếp  
        nhận  
        giải  
        thưởng  
        hòa  
        bình  
        trên  
        tinh  
        thần  
        nhân  
        danh  
        những  
        người  
        bị  
        đàn  
        áp  
        ở  
        khắp  
        mọi  
        nơi,  
        tất  
        cả  
        những  
        ai  
        đấu  
        tranh  
        cho  
        tự  
        do  
        và  
        hòa  
        bình  
        thế  
        giới  
        và  
        đặc  
        biệt  
        là  
        nhân  
        dân  
        Tây  
        Tạng.  
        Trong  
        lời  
        phát  
        biểu  
        tại  
        buổi  
        lễ  
        nhận  
        giải,  
        Ngài  
        đã  
        nói:  
        ''Giải  
        thưởng  
        đã  
        tái  
        xác  
        nhận  
        một  
        lần  
        nữa  
        lòng  
        quyết  
        tâm  
        của  
        chúng  
        tôi  
        rằng  
        chân  
        lý,  
        lòng  
        dũng  
        cảm  
        và  
        quyết  
        tâm  
        của  
        chúng  
        tôi  
        như  
        là  
        những  
        vũ  
        khí,  
        Tây  
        Tạng  
        sẽ  
        được  
        tự  
        do.  
        Cuộc  
        đấu  
        tranh  
        của  
        chúng  
        tôi  
        vẫn  
        phải  
        theo  
        đuổi  
        đường  
        hướng  
        bất  
        bạo  
        động  
        và  
        loại  
        bỏ  
        hận  
        thù''  
        ("The  
        prize  
        reaffirms  
        our  
        conviction  
        that  
        with  
        truth,  
        courage  
        and  
        determination    
        as  
        our  
        weapons,  
        Tibet  
        will  
        be  
        liberated.  
        Our  
        struggle  
        must  
        remain  
        nonviolent  
        and  
        free  
        of  
        hatred"). 
 
         
        8.  
        Tiếp  
        xúc  
        với  
        Đông  
        &  
        Tây  
        :
 
        Từ  
        năm  
        1967,  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        đã  
        khởi  
        hàng  
        loạt  
        chuyến  
        viếng  
        thăm,  
        đến  
        nay  
        đã  
        được  
        46  
        quốc  
        gia.  
        Vào  
        mùa  
        thu  
        năm  
        1991,  
        Ngài  
        đến  
        thăm  
        vùng  
        Baltic  
        khi  
        nhận  
        được  
        lời  
        mời  
        của  
        Tổng  
        thống  
        Lithuania,  
        ông  
        Vytautas  
        Landsbergis,  
        và  
        Ngài  
        đã  
        trở  
        thành  
        vị  
        khách  
        ngoại  
        quốc  
        đầu  
        tiên  
        đọc  
        diễn  
        văn  
        tại  
        quốc  
        hội  
        của  
        Lithuania.  
        Ngài  
        đã  
        gặp  
        đức  
        Giáo  
        Hoàng  
        Paul  
        đệ  
        lục    
        tại  
        Vatican  
        vào  
        năm  
        1973  
        và  
        đức  
        Giáo  
        Hoàng  
        John  
        Paul  
        đệ  
        nhị  
        vào  
        năm  
        1980  
        tại  
        Rome  
        và  
        các  
        năm  
        khác  
        là  
        1980,  
        1982,  
        1986,  
        1988  
        và  
        1990.  
         
 
        Sau  
        đây  
        là  
        bản  
        liệt  
        kê  
        danh  
        sách  
        các  
        quốc  
        gia  
        mà  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        đã  
        viếng  
        thăm:  
        Argentina  
        1992,  
        1999;  
        Úc  
        Đại  
        Lợi:  
        1982,  
        1992,  
        1996;   
        Áo  
        quốc:  
        1973,  
        1983,  
        1986,  
        1989,  
        1991,1992,  
        1993,  
        1995,  
        1998;   
        Bỉ:   
        1973,  
        1990,  
        1991,  
        1994,  
        1999;  
        Bulgaria  
        1991;  
        Buryat  
        Autonomous  
        1991,  
        1993;  
        Brazil,  
        1992,  
        1999;  
        Canada  
        1980,  
        1990,  
        1993;   
        Chile  
        1992,  
        1999;  
        Costa  
        Rica  
        1989;  
        Czechkoslvakia  
        1990;  
        Đan  
        Mạch:  
        1973,  
        1991,  
        1996;  
        Estonia  
        1991;  
        Phần  
        Lan:  
        1988,  
        1996,  
        1998;  
        Pháp:   
        1982,  
        1986,  
        1988,  
        1989,  
        1990,  
        1991,  
        1992,  
        1993,  
        1994,  
        1998;  
        Đức:  
        1973,  
        1982,  
        1983,  
        1984,  
        1986,  
        1987,  
        1988,  
        1989,  
        1990,  
        1991,1992,1994,  
        1995,  
        1996,  
        1998,  
        1999;  
        Greece  
        1979;   
        Hungary  
        1982,  
        1989,  
        1992,  
        1993.  
        1996;  
        Indonesia  
        1982;  
        Israel  
        1994,  
        1999;  
        Italy  
        1982,  
        1986,  
        1988,  
        1989,  
        1991,  
        1994,  
        1996,  
        1999;  
        Nhật  
        Bản:  
        1967,  
        1978,  
        1980,  
        1984,1994,  
        1995,  
        1998;          
        Latvia  
        1991;  
        Liechtenstein  
        1991;  
        Lithunia  
        1991;  
        Mã  
        Lai:  
        1982;  
        Mexico  
        1989  
        ;  
        Mông  
        Cổ:  
        1979,  
        1982,  
        1991,  
        1994;  
        Nepal  
        1981;  
        Tân  
        Tây  
        Lan:  
        1992,  
        1996;  
        Na  
        Uy:  
        1973,  
        1989,  
        1991,  
        1996;  
        Cộng  
        Hòa  
        Nhân  
        Dân  
        Trung  
        Hoa:  
        1954;  
        Hòa  
        Lan:  
        1993;  
        Cộng  
        Hòa  
        Ấn  
        Độ:  
        1956,  
        1959  
        (cũng  
        là  
        nơi  
        Ngài  
        trú  
        ngụ  
        hiện  
        nay);  
        Cộng  
        Hòa  
        Ái  
        Nhĩ  
        Lan:  
        1973,  
        1991;  
        Singapore:  
        1982  
        ;  
        Tây  
        Ban  
        Nha:  
        1982,  
        1994  
        ;  
        Nam  
        Phi:  
        1996;  
        Thụy  
        Điển:  
        1973,  
        1988,  
        1990,  
        1991,  
        1996;  
        Thụy  
        Sĩ:    
        1973,  
        1974,  
        1974,  
        1983,  
        1985,  
        1987,  
        1988,  
        1990,  
        1991,1994,  
        1995,  
        1996,  
        1998;  
        Thái  
        Lan:  
        1967,  
        1972,  
        1993;  
        Hà  
        Lan  
        1973,  
        1986,  
        1990,1994;  
        Tòa  
        thánh  
        Vatican:  
        1973,  
        1981,  
        1984,  
        1988,  
        1990,  
        1991,  
        1996;  
        Thổ  
        Nhĩ  
        Kỳ:  
        1983;  
        Anh  
        quốc:  
        1973,  
        1981,  
        1984,  
        1988,  
        1991,1993,  
        1994,  
        1996,  
        1999;  
        Liên  
        Xô  
        cũ:  
        1991,1994;  
        Hiệp  
        chủng  
        quốc  
        Hoa  
        Kỳ:  
        1979,  
        1980,  
        1981,  
        1984,  
        1987,  
        1990,  
        1991,   
        1992,  
        1993,  
        1994,  
        1995,  
        1996,  
        1998,  
        1999.  
         
 
         
        9.  
        Những  
        nhà  
        lãnh  
        đạo  
        mà  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        tiếp  
        xúc:
 
        Năm  
        1999  
        :
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Josckha  
        Fischer,  
        Bộ  
        trưởng  
        ngoại  
        giao  
        Đức 
 
        Ngày  
        12  
        tháng  
        5:  
        ông   
        Robin  
        Cook,  
        Bộ  
        trưởng  
        ngoại  
        giao  
        Anh 
 
        Ngày  
        13tháng  
        5:  
        ông  
        Tony  
        Blair,  
        Thủ  
        tướng  
        Anh 
 
        Ngày  
        4  
        tháng  
        5:  
        ông  
        Jean  
        Luc  
        DEHAENE,  
        Thủ  
        tướng  
        Bỉ 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Edwardo  
        Frei,  
        Tổng  
        thống  
        cộng  
        hòa  
        Chile 
 
        Ngày  
        7  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Fernando  
        Henrique  
        Cardoso,  
        Tổng  
        thống  
        Brazil 
 
        Năm   
        1998: 
 
        Ngày   
        8  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Jacques  
        Chirac,  
        Tổng  
        Thống  
        Pháp 
 
        Ngày   
        8  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Lionel  
        Jospin,  
        Thủ  
        tướng  
        Pháp 
 
        Ngày   
        8  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Kofi  
        Annan,  
        Tổng  
        Thư  
        Ký  
        Liên  
        Hợp  
        Quốc 
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        12:  
        ông  
        William  
        J.  
        Clinton,  
        Tổng  
        thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Albert  
        Gore,  
        Phó  
        Tổng  
        thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        12:  
        bà  
        Madeleine  
        Alright,    
        Ngoại  
        trưởng  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        20  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Claes  
        Anderson,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Văn  
        Hóa,  
        Phần  
        Lan 
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        12:  
        bà  
        Elisabeth  
        Guigou,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Tư  
        Pháp,  
        Pháp  
        quốc 
 
        Ngày  
        9  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Wolfgang  
        Schuessel,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao,  
        Áo 
 
        Năm   
        1997
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        4:  
        bà  
        Madeleine  
        Albright,  
        Ngoại  
        trưởng  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        4:  
        ông  
        William  
        J.  
        Clinton,  
        Tổng  
        thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Albert  
        Gore,  
        Phó  
        Tổng  
        thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        24  
        tháng  
        3:  
        ông  
        Lin  
        Feng-cheng,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Nội  
        Vu,  
        Đài  
        Loan 
 
        Ngày  
        26  
        tháng  
        3:  
        ông  
        Lien  
        Chan,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Đài  
        Loan 
 
        Ngày  
        27  
        tháng  
        3:  
        ông  
        Lee  
        Teng-hui,  
        Tổng  
        Thống  
        Đài  
        Loan 
 
        Ngày  
        26  
        tháng  
        9:  
        ông  
        John  
        Howard,  
        Thủ  
        tướng  
        Úc 
 
         
 
        Năm   
        1996
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Van  
        Mierlo,  
        Ngoại  
        Trưởng  
        Phần  
        Lan 
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        10:  
        Tiến  
        sĩ  
        Klaus  
        Hansch,  
        Chủ  
        tịch  
        Nghị  
        Viện  
        Châu  
        Âu 
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Jacques  
        Santer,  
        Chủ  
        tịch  
        Liên  
        Minh  
        Châu  
        Âu 
 
        Ngày  
        29  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Jacues  
        Toubon,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Tư  
        Pháp,  
        Pháp  
        quốc 
 
        Ngày  
        26  
        tháng  
        9:  
        ông  
        John  
        Howard,  
        Thủ  
        tướng  
        Úc 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Alexander  
        Downer,  
        Ngọai  
        trưởng  
        Úc 
 
        Ngày  
        11  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Jim  
        Bolger,  
        Thủ  
        tướng  
        Tân  
        Tây  
        Lan 
 
        Ngày  
        11  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Don  
        McKinnon,  
        Phó  
        Thủ  
        tướng  
        Tân  
        Tây  
        Lan 
 
        Ngày  
        22  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Nelson  
        Mandela,  
        Tổng  
        thống  
        Nam  
        Phi 
 
        Ngày  
        17  
        tháng  
        7:  
        ông  
        Malcom  
        Rifkind,  
        Ngoại  
        trưởng  
        Anh 
 
         Ngày  
        28  
        tháng  
        5:  
        ông  
        Bjore  
        Godal,  
        Ngoại  
        trưởng  
        Na  
        Uy 
 
        Ngày  
        27  
        tháng  
        5:  
        ông  
        Pekka  
        Haavisto,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Môi  
        Sinh,  
        Phần  
        Lan 
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        5:  
        bà  
        Lena  
        Hjelm-Walln,  
        Ngoại  
        Trưởng  
        Thụy  
        Điển 
 
        Ngày  
        20  
        tháng  
        5:  
        Giáo  
        hoàng  
        Pope  
        John  
        Paul  
        II 
 
        Ngày  
        15  
        tháng  
        5:  
        ông  
        Niels  
        Petersen,  
        Ngoại  
        Trưởng  
        Đan  
        Mạch 
 
        Ngày  
        30  
        tháng  
        4:  
        Hoàng  
        tử  
        Albert,  
        xứ  
        Monaco 
 
         
        Ngày  
        26  
        tháng  
        9:  
        ông  
        John  
        Howard,  
        Thủ  
        tướng  
        Úc
 
         
         
        Đức  
        Dalai  
        lama  
        và  
        ông  
        John  
        Howard,  
        Thủ  
        tướng  
        Úc
 
        Năm  
        1995 
 
        Ngày  
        13  
        tháng  
        9:  
        ông  
        William  
        J.  
        Clinton,  
        Tổng  
        Thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        13  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Albert  
        Gore,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        4  
        tháng  
        5:  
        Tiến  
        sĩ  
        Klaus  
        Kinkel,  
        Ngoại  
        trưởng  
        Đức 
 
        Ngày  
        23  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Flavio  
        Cotti,  
        Ngoại  
        Trưởng  
        Thụy  
        Sĩ 
 
        Năm  
        1994
 
        Ngày  
        8  
        tháng  
        10:  
        bà  
        Gro  
        Harlem  
        Brundtland,  
        Thủ  
        Tướng  
        Na  
        Uy 
 
        Ngày  
        3  
        tháng  
        7:  
        bàVioleta  
        Chamorro,  
        Tổng  
        Thống  
        Nicaragua 
 
        Ngày  
        17  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Silvio  
        Berlusconi,  
        Thủ  
        Tướng  
        Italy 
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Oscar  
        Luigi  
        Scalfaro,  
        Tổng  
        Thống  
        Italy 
 
        Ngày  
        9  
        ttháng  
        6:  
        ông  
        Marin  
        Gonzalez,  
        Phó  
        Chủ  
        Tịch  
        Liên  
        Minh  
        Châu  
        Âu 
 
        Ngày  
        7  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Jean  
        Luc  
        Dehene,  
        Thủ  
        Tướng  
        Bỉ 
 
        Ngày  
        6  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Pleter  
        Kooilmans,  
        Ngoại  
        Trưởng  
        Hà  
        Lan 
 
        Ngày  
        5  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Wim  
        Kok,  
        Tổng  
        Trưởng  
        Tài  
        chính  
        Hà  
        Lan 
 
        Ngày  
        29  
        tháng  
        4:  
        Giáo  
        sư  
        Karl-Hans  
        Laermann,  
        Tổng  
        Trưởng  
        Giáo  
        Dục  
        Đức 
 
        Ngày  
        28  
        tháng  
        4:  
        ông  
        William  
        J.  
        Clinton,  
        Tổng  
        Thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        28  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Albert  
        Gore,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        21  
        tháng  
        3:  
        ông  
        Yossi  
        Sarid,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Môi  
        Sinh  
        Israel 
 
        Năm  
        1993
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        11:  
        ông  
        Francois  
        Mitterrand,  
        Tổng  
        Thống  
        Pháp 
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        11:  
        ông  
        Alain  
        Juppe,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Pháp 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        11:  
        ông  
        Philippe  
        Douste  
        Blazy,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Y  
        Tế  
        Pháp 
 
        Ngày  
        30  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Alain  
        Carignon,  
        Tổng  
        Trưởng  
        Thông  
        Tin  
        Pháp 
 
        Ngày  
        28  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Michel  
        Barnier,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Môi  
        Sinh  
        Pháp 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        6:  
        Tiến  
        sĩ  
        Thomas  
        Klestil,  
        Tổng  
        Thống  
        Áo 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        6:  
        Tiến  
        sĩ  
        Alois  
        Mock,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Áo 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        6:  
        Tiến  
        sĩ  
        Nikolaus  
        Michalek,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Tư  
        Pháp  
        Áo 
 
        Ngày  
        15  
        tháng  
        6:  
        ông  
        Franz  
        Vranitzky,  
        Thủ  
        Tướng  
        Áo 
 
        Ngày  
        15  
        tháng  
        6:  
        Tiến  
        sĩ  
        Erhard  
        Buiek,  
        Phó  
        Thủ  
        Tướng  
        Áo 
 
        Ngày  
        29  
        tháng  
        6:  
        bà  
        Barbara  
        McDougal,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Nội  
        Vụ  
        Canada 
 
        Ngày  
        12  
        tháng  
        5:  
        ông  
        Douglas  
        Hurd,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Anh 
 
        Ngày  
        27  
        tháng  
        4:  
        ông  
        William  
        J.  
        Clinton,  
        Tổng  
        Thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        27  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Albert  
        Gore,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        26  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Warren  
        Christopher,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Mỹ 
 
        Năm  
        1992
 
        Ngày  
        6  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Gareth  
        Evan,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Úc 
 
        Ngày  
        8  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Paul  
        Keating,  
        Thủ  
        Tướng  
        Úc 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Don  
        McKinnon,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Tân  
        Tây  
        Lan 
 
        Ngày  
        11  
        tháng  
        4:  
        ông  
        Carlos  
        Menem,  
        Tổng  
        Thống  
        Argentina 
 
        Ngày  
        17  
        tháng  
        5:  
        ông  
        Patiricio  
        Aylwin,  
        Tổng  
        Thống  
        Chile 
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        7:  
        Tiến  
        sĩ  
        Thomas  
        Klestil,  
        Tổng  
        Thống  
        Áo 
 
        Ngày  
        26  
        tháng  
        7:  
        ông  
        Franz  
        Vranitzky,  
        Thủ  
        Tướng  
        Áo 
 
        Năm  
        1991
 
        Ngày  
        22  
        tháng  
        3:  
        bà  
        Mary  
        Rohinson,  
        Tổng  
        Thống  
        Ái  
        Nhĩ  
        Lan 
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        4:  
        ông  
        George  
        Bush,  
        Tổng  
        Thống  
        Mỹ 
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        8:  
        His  
        Highness  
        Hans  
        Adam,  
        Prince  
        of  
        Lichtenstein 
 
        Ngày  
        19  
        tháng  
        8:  
        ông  
        Rene  
        Felber,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Thụy  
        Sĩ 
 
        Ngày  
        16  
        tháng  
        8:  
        ông  
        Ronald  
        Dumas,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Pháp 
 
        Ngày  
        2  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Kurt  
        Waldheim,  
        Tổng  
        Thống  
        Áo 
 
        Ngày  
        2  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Alois  
        Mock,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Áo 
 
        Ngày  
        3  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Franz  
        Vranitzky,  
        Thủ  
        Tướng  
        Áo 
 
        Ngày  
        29  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Vytautas  
        Landsbergis,  
        Tổng  
        Thống  
        Lithaunia 
 
        Ngày  
        30  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Gediminas  
        Vagnorius,  
        Thủ  
        Tướng  
        Lithaunia 
 
        Ngày  
        1  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Kazimieras  
        Motieka,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Lithaunia 
 
        Ngày  
        2  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Anatolijs  
        Gorbunvos,  
        Tổng  
        Thống  
        Lavtia 
 
        Ngày  
        3  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Andregs  
        Krastins,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Lavtia 
 
        Ngày  
        4tháng  
        10:  
        ông  
        Bronius  
        Kuzmickas,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Estonia 
 
        Ngày  
        5tháng  
        10:  
        ông  
        Zhelyn  
        Zhelev,  
        Tổng  
        Thống  
        Bulgaria 
 
        Ngày  
        2  
        tháng  
        12:  
        ông  
        John  
        Major,  
        Thủ  
        Tướng  
        Anh 
 
        Ngày  
        4  
        tháng  
        12:  
        bà  
        Margaretha  
        af  
        Ugglas,  
        Tổng  
        Thống  
        Thụy  
        Điển 
 
        Ngày  
        5  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Uffe  
        Ellemann-Jensen,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Đan  
        Mạch 
 
        Ngày  
        8  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Torvald  
        Stoltenberg,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Na  
        Uy 
 
        Năm  
        1990
 
        Ngày  
        2  
        tháng  
        2:  
        ông  
        Vaclav  
        Havel,  
        Tổng  
        Thống  
        Czechoslovakia 
 
        Ngày  
        24  
        tháng  
        24:  
        Hon  
        Lizin,  
        Bộ  
        Trưởng  
        thương  
        Mại  
        và  
        Hợp  
        Tác  
        Pháp 
 
        Ngày  
        1  
        tháng  
        6:  
        Đức  
        Giáo  
        hoàng  
        John  
        Paul  
        II 
 
        Ngày  
        2  
        tháng  
        9:  
        ông  
        Gerry  
        Weiner,  
        Ngoại  
        Trưởng  
        Canada 
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        9:  
        ông  
        H.  
        van  
        den  
        Broek,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Hà  
        Lan 
 
        Ngày  
        7  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Richard  
        von  
        Weizsacher,  
        Tổng  
        Thống  
        Đức 
 
        Năm  
        1989
 
        Ngày  
        27  
        tháng  
        6:  
        Tiến  
        sĩ  
        Oscar  
        Arias,  
        Tổng  
        Thống  
        Costa  
        Rica 
 
        Ngày  
        3  
        than1g  
        7:  
        ông  
        Carlos  
        Salinas  
        de  
        Gortari,  
        Tổng  
        Thống  
        Mexico 
 
        Ngày  
        6  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Jurgen  
        Wohlrabe,  
        Tổng  
        Thống  
        Tây  
        Đức 
 
        Ngày  
        9  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Kjell  
        Magne  
        Bondevik,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao   
        Na  
        Uy 
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        12:  
        Vua  
        Olav,  
        Na  
        Uy 
 
        Ngày  
        11  
        tháng  
        12:  
        ông  
        Jan  
        P.  
        Syse,  
        Thủ  
        Tướng  
        Na  
        Uy 
 
        Năm  
        1986
 
        Ngày  
        13  
        tháng  
        5:  
        Tiến  
        sĩ  
        Rudolf  
        Kirchschlaeger,  
        Tổng  
        Thống  
        Áo 
 
        Ngày  
        27  
        tháng  
        5:  
        ông  
        Jacques  
        Chirac,  
        Thủ  
        Tướng  
        Pháp 
 
        Năm  
        1982
 
        Ngày  
        27  
        tháng  
        7:  
        ông  
        Tunku  
        Abdul  
        Rahman,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Mã  
        Lai 
 
        Ngày  
        26  
        tháng  
        7:  
        ông  
        A.  
        Ratu  
        Perwiranegasa,  
        Tổng  
        Trưởng  
        Tôn  
        giáo  
        Mã  
        Lai 
 
        Ngày  
        2  
        tháng  
        8:  
        Ông  
        Adam  
        Malik,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Nam  
        Dương 
 
        Năm  
        1980 
 
        Ông  
        Suzuki  
        Zenko,  
        Thủ  
        Tướng  
        Nhật  
        Bản  
         
 
        Năm  
        1978
 
        Bà  
        J.R.  
        Jayewardene,  
        Phu  
        nhân  
        Tổng  
        Thống  
        Sri  
        Lanka 
 
        Năm  
        1973
 
        Ngày  
        1  
        tháng  
        9:  
        Đức  
        Giáo  
        Hòang  
        Pual  
        V  
         
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Erskine  
        Chidlers,  
        Tổng  
        Thống  
        Ái  
        Nhĩ  
        Lan 
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        10  
        ông  
        Lien  
        Cosgrade,  
        Thủ  
        Tướng  
        Ái  
        Nhĩ  
        Lan 
 
        Ngày  
        10  
        tháng  
        10:  
        ông  
        Frank  
        Aiken,  
        Bộ  
        Trưởng  
        Ngoại  
        giao  
        Ái  
        Nhĩ  
        Lan 
 
        Năm  
        1967
 
        Ngày  
        13  
        tháng  
        11:   
        ông  
        Field  
        Marshal  
        T.  
        Kittikachorn,  
        Thủ  
        Tướng  
        Thái  
        Lan 
 
        Ngày  
        14  
        tháng  
        11:  
        Vua   
        Bhumibol  
        Adulyadej,  
        Thái  
        Lan 
 
        Năm  
        1956
 
        Tất  
        cả  
        các  
        vị  
        Thủ  
        Tướng,  
        Tổng  
        Thống,  
        Phó  
        Tổng  
        Thống  
        Ấn  
        Độ 
 
        Năm  
        1954 
 
        Mao  
        Trạch  
        Đông,  
        Chu  
        Ân  
        Lai  
        và  
        Đặng  
        Tiểu  
        Bình 
 
         10.  
        Một  
        Tu  
        sĩ  
        Phật  
        Giáo  
        bình  
        thường
 
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thường  
        nói  
        rằng:  
        ''Tôi  
        chỉ  
        là  
        một  
        tu  
        sĩ  
        Phật  
        giáo  
        bình  
        thường,  
        không  
        hơn,  
        không  
        kém''  
        (I  
        am  
        just  
        a  
        simple  
        Buddhist  
        monk  
        -  
        no  
        more,  
        no  
        less).  
        Sống  
        trong  
        một  
        tịnh  
        thất  
        nhỏ  
        ở  
        Dharamsala,  
        Ngài  
        thức  
        dậy  
        vào  
        lúc  
        4  
        giờ  
        sáng,  
        ngồi  
        thiền,  
        rồi  
        tiếp  
        tục  
        làm  
        việc  
        theo  
        thời  
        khóa  
        biểu  
        của  
        văn  
        phòng  
        chính  
        phủ,  
        tiếp  
        khách  
        và  
        diễn  
        giảng  
        giáo  
        lý  
        cho  
        các  
        khóa  
        tu  
        hoặc  
        chứng  
        minh  
        các  
        đại  
        lễ. 
 
         
        11.  
        Tác  
        phẩm  
        của  
        Ngài  
        :
 
        Mặc  
        dù  
        bận  
        rộn  
        với  
        nhiều  
        công  
        tác  
        của  
        chính  
        phủ  
        và  
        hoằng  
        Pháp,  
        nhưng  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        cũng  
        dành  
        những  
        thời  
        gian  
        nhất  
        định  
        để  
        viết  
        những  
        tác  
        phẩm  
        Phật  
        học,  
        lịch  
        sử,  
        tự  
        truyện...  
        để  
        phổ  
        biến  
        những  
        tinh  
        túy  
        trong  
        giáo  
        lý  
        của  
        Phật  
        Đà.  
        Khởi  
        viết  
        cuốn  
        ''Đất  
        nước  
        và  
        Con  
        người  
        của  
        Tôi''  
        (My  
        Land  
        and  
        My  
        People)  
        vào  
        năm  
        1964  
        sau  
        khi  
        Ngài  
        đến  
        tị  
        nạn  
        tại  
        Ấn  
        Độ,  
        tính  
        đến  
        nay  
        đã  
        có  
        trên  
        dưới  
        50  
        tác  
        phẩm  
        các  
        loại,  
        do  
        chính  
        ngài  
        tự  
        tay  
        viết  
        hoặc  
        do  
        đệ  
        tử  
        ghi  
        chép  
        những  
        bài  
        giảng  
        của  
        Ngài  
        hoặc  
        họ  
        viết  
        về  
        ngài.  
        Đáng  
        chú  
        ý  
        trong  
        số  
        tác  
        phẩm  
        này  
        là:  
        "Khai  
        mở  
        con  
        mắt  
        trí  
        tuệ"  
        (The  
        opening  
        of  
        the  
        Wisdom  
        eye,  
        xuất  
        bản  
        năm  
        1972;  
        "Phật  
        giáo  
        của  
        Tây  
        Tạng''  
        (The  
        Buddhism  
        of  
        Tibet,  
        xb  
        năm  
        1975);  
        "Dalai  
        Lama:  
        chính  
        sách  
        của  
        Lòng  
        Từ"  
        (The  
        Dalai  
        Lama:  
        A  
        Policy  
        of  
        Kindness,  
        xb  
        năm  
        1990);  
        "Tự  
        do  
        nơi  
        lưu  
        đầy''  
        (Free  
        in  
        Exile,  
        xb  
        năm  
        1991);  
        "Ý  
        nghĩa  
        của  
        cuộc  
        sống''  
        (The  
        meaning  
        of  
        Life,  
        xb  
        năm  
        1992)  
        "Tia  
        sáng  
        trong  
        bóng  
        đêm"  
        (Flash  
        of  
        Lightning  
        in  
        the  
        Dark  
        of  
        Night,  
        xb  
        năm  
        1994);  
        ''Cuộc  
        đối  
        thoại  
        về  
        trách  
        nhiệm  
        chung  
        và  
        giáo  
        dục  
        ''(Dialogues  
        on  
        Universal  
        Responsibility  
        and  
        Education,  
        xb  
        năm  
        1995);  
        "Sức  
        mạnh  
        của  
        lòng  
        từ''  
        (The  
        power  
        of  
        compassion,  
        xb  
        năm  
        1995);  
        "Con  
        đường  
        giải  
        thoát''  
        (The  
        path  
        of  
        Enlightenment,  
        xb  
        năm  
        1995);  
        "Bạo  
        lực  
        và  
        Lòng  
        từ  
        bi/  
        sức  
        mạnh  
        của  
        Phật  
        giáo"  
        (Violence  
        and  
        Compassion/  
        Power  
        of  
        Buddhism,  
        xb  
        năm  
        1995);  
        "Bốn  
        Chân  
        Lý  
        Mầu  
        Nhiệm"  
        (The  
        Four  
        Noble  
        Truths,  
        xb  
        năm  
        1998);  
        "Nghệ  
        thuật  
        hạnh  
        phúc"  
        (The  
        art  
        of  
        Happiness,  
        xb  
        năm  
        1998).,"Mật  
        Tông  
        Kalachkra  
        (KALACHAKRA  
        TANTRA,  
        Xb  
        1999);  
        "ý  
        Nghĩa  
        cuộc  
        cuộc  
        sống"(  
        THE  
        MEANING  
        OF  
        LIFE,  
        Xb  
        1999);  
        "  
        Khoa  
        học  
        Tâm  
        Linh,  
        cuộc  
        đối  
        thoại  
        của  
        đông  
        &Tây"  
        (MIND  
        SCIENCE,An  
        East-West  
        Dialogue,  
        xb  
        1999);  
        "Ngủ,  
        nằm  
        mơ  
        và  
        Chết,  
        một  
        cuộc  
        khám  
        phá  
        của  
        Tâm  
        thức"  
        (SLEEPING,  
        DREAMING,  
        AND  
        DYING,  
        An  
        Exploration  
        of  
        Consciousness,  
        Xb  
        1999)    
        "Thế  
        giới  
        của  
        PG  
        Tây  
        Tang,  
        khái  
        quát  
        về  
        triết  
        lý  
        và  
        thực  
        hành"  
        (THE  
        WORLD  
        OF  
        TIBETAN  
        BUDDHISM,   
        An  
        Overview  
        of  
        Its  
        Philosophy  
        and  
        Practice,  
        Xb  
        1999  
        )  
        .v.v...  
        (địa  
        chỉ  
        liên  
        lạc  
        để  
        thỉnh  
        sách  
        của  
        Ngài  
        là:  
        Snow  
        Lion,  
        PO  
        Box  
        6483.  
        Thaca,  
        NY  
        14851,  
        USA.  
        Tel:  
        001-607-273-8519.   
        Fax:  
        001-607-273-8508.  
        e-mail:  
        Snow  
        Lion.  
        http://www.snowlionpub.com.  
        Wisdom  
        Publication,  
        361  
        Newbury  
        Street,  
        Boston,  
        Ma.  
        02115,  
        USA.  
        Tel:  
        001-617-536-3358,  
        Fax:  
        001-617-536-1897.  http://www.snowlionpub.com;  
        Dharma  
        Publishing,  
        2910  
        San  
        Pablo  
        Ave,  
        Berkeley,  
        CA  
        94702,  
        USA.  
        Tel:  
        001-510-548-5407.   
        Fax:  
        001-510-548-2230.  
        Wisdom  
        Books,  
        402  
        Hoe  
        Street,  
        London  
        E17  
        9AA,  
        UK.  
        Tel:  
        0044-181-520-5588.   
        Fax:  
        0044-181-520-0932.  
        http://www.demon.co.uk/wisdom.  
        Địa  
        chỉ  
        liên  
        lạc  
        với  
        tác  
        giả:  
        His  
        Holiness  
        the  
        Dalai-Lama's  
        Religious  
        and  
        Cultural  
        Society.  
        Gangchen  
        Kyishong,  
        Dharamsala  
        176215,   
        District  
        Kangra,  
        Himachal  
        Pradesh  
        INDIA. 
 
        
 
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        đang  
        thuyết  
        pháp  
        tại  
        sân  
        vận  
        động  
        Sydney,  
        Úc  
        châu
 
         
        12.  
        Kết  
        luận:
 
        Như  
        sự  
        mô  
        tả  
        của  
        giáo  
        sư  
        Eric  
        Sharpe  
        thánh  
        nhân  
        là  
        người  
        suốt  
        đời  
        chú  
        trọng  
        đến  
        việc  
        mang  
        lại  
        an  
        lạc  
        cho  
        con  
        người  
        và  
        cuộc  
        đời.  
        Trong  
        khi  
        theo  
        đuổi  
        lý  
        tưởng  
        ấy,  
        họ  
        thường  
        phải  
        hứng  
        chịu  
        những  
        trở  
        ngại,  
        đau  
        đớn  
        hoặc  
        nguy  
        hiểm  
        đến  
        sinh  
        mạng.  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        14  
        đã  
        hiện  
        thân  
        cho  
        những  
        gì  
        đã  
        được  
        mô  
        tả  
        ấy.  
        Tuy  
        nhiên,  
        theo  
        các  
        nhà  
        phân  
        tích,  
        sự  
        xuất  
        hiện  
        của  
        ngài   
        như  
        là  
        một  
        định  
        mệnh,  
        đã  
        thừa  
        kế  
        tước  
        vị  
        Dalai  
        Lama  
        ở  
        trong  
        một  
        giai  
        đoạn  
        bấp  
        bênh  
        nhất  
        trong  
        toàn  
        bộ  
        lịch  
        sử  
        cao  
        quý  
        này.  
        Hiện  
        nay,  
        vẫn  
        trong  
        thân  
        phận  
        người  
        tị  
        nạn  
        lưu  
        vong,  
        tuy  
        nhiên,  
        Ngài  
        rất  
        lạc  
        quan  
        và  
        hy  
        vọng  
        cho
 
        
 
        Chân  
        dung  
        Đức  
        Đạt  
        Lai  
        Lạt  
        Ma  
        thứ  
        14
 
         
 
        tương  
        lai  
        độc  
        lập  
        và  
        tự  
        do  
        cho  
        thế  
        giới  
        và  
        xứ  
        sở  
        của  
        Ngài  
        như  
        lời  
        Ngài  
        đã  
        nhắc  
        tới  
        trong  
        bức  
        Thông  
        Điệp  
        2000:  
        "Thế  
        kỷ  
        20  
        đầy  
        xung  
        đột  
        và  
        chiến  
        tranh.  
        Từng  
        bước,  
        chúng  
        ta  
        bảo  
        đảm  
        thế  
        kỷ  
        tới  
        sẽ  
        có  
        đặc  
        tính  
        bất  
        bạo  
        động  
        và  
        đối  
        thoại,  
        là  
        điều  
        kiện  
        tiên  
        quyết  
        để  
        cùng  
        hiện  
        hữu  
        bên  
        nhau  
        trong  
        hòa  
        bình".  
        "Xã  
        hội  
        nào  
        cũng  
        có  
        những  
        khác  
        biệt  
        và  
        xung  
        đột.  
        Tuy  
        vậy,  
        chúng  
        ta  
        cần  
        phát  
        triển  
        niềm  
        tin  
        tưởng  
        rằng:  
        đối  
        thoại  
        và  
        tình  
        bạn  
        là  
        một  
        đường  
        lối  
        chính  
        chắn  
        để  
        tránh  
        bạo  
        động.  
        Trước  
        thiên  
        kỷ  
        mới,  
        điều  
        mọi  
        người  
        cần  
        thực  
        hiện  
        là  
        tăng  
        cường  
        tinh  
        thần  
        trách  
        nhiệm  
        đối  
        với  
        quốc  
        tế". 
 
         
        Tổng  
        hợp  
        theo  
        các  
        tài  
        liệu:
 
        -  
        Mary  
        craig  
        (1997)  
        Kundun,  
        A  
        biography  
        of  
        the  
        Family  
        of  
        the  
        Dalai  
        Lama,  
        Harper  
        Collins  
        Publishers,  
        London
 
        -  
        Roger  
        Hicks  
        &  
        Ngakpa  
        Chogyam  
        (1984)  
        Great  
        Ocean,  
        An  
        Authories  
        Biography  
        of  
        the  
        Buddhist  
        Monk  
        Tenzin  
        Gyatso  
        His  
        Holiness  
        The  
        14th  
        Dalai  
        Lama,  
        Element  
        Books,  
        Great  
        Britain.
 
        -  
        Tenzin  
        Gyatso  
        Dalai  
        Lama  
        (1998),  
        Freedom  
        in  
        Exile,  
        Snow  
        Lion  
        Publications,  
        New  
        York.
Source: quangduc.com