Trịnh Công Sơn  (1939-2001), ông sinh tại Đắc Lắc, lúc nhở ông sống ở 
Huế, trưởng thành ở  Đà Lạt, Quy Nhơn, Sài Gòn. Có thể nói, Đắc Lắc cho 
ông một tính cách cô  đơn, mãnh liệt; Đà Lạt nuôi thơ và tâm hồn mộng 
mị; Huế mang đến một  không gian buồn bã, lắng đọng. ở Huế, TCS theo học
 các trường Lyceè  Francais, Provindence Huế, sau vào Sài Gòn học triết ở
 trường Tây Lyceè  J.J Rousseau Sài Gòn. Triết học là chìa khóa duy nhất
 giải mã cho tâm  hồn người thanh niên non nớt này về cuộc sống, bản 
thân, đặc biệt về  Phật giáo. Chính TCS khi trả lời phỏng vấn các nhà 
báo cũng đã từng nói:  “Huế và đạo phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm 
thời thơ ấu của tôi.  Tất cả những gì thuộc về cuộc sống đều có ảnh 
hưởng trên đời sống tinh  thần và tình cảm của tôi.” Trong dòng ca khúc 
của TCS, có thể thấy rõ  quan niệm sáng tác qua từng giai đoạn: Dòng ca 
khúc trữ tình, dòng ca  khúc chống chiến tranh (phản chiến), và dòng ca 
khúc âm ỉ thứ ba: giải  thoát bản ngã. Ca khúc trữ tình là phần nghiêng 
trong sáng tác của TCS,  đặc biệt là vào thời kỳ trước 1975, trong số 
400 bài được xuất bản và  phổ biến. Ở những ca khúc đầu tay, thời gian 
được xóa nhòa trong cõi  mộng, gờn gợn thứ âm nhạc liêu trai, một chút 
cô đơn, một ít tuyệt vọng  và chưa thể hiện rõ tư tưởng Phật gióa trong 
những sáng tác của mình.  Cuộc sống nhiều cọ sát đã mang đến cho ông 
thêm những triết lý về cuộc  đời để những ca khúc trở nên bớt gập ghềnh 
hơn, sâu sắc hơn và những  nhạc phẩm mà ông tạo ra trong giai đoạn sau 
đã có sự hội tụ giữa Đạo và  Tình. Triết lý nhà Phật thấm sâu trong tâm 
hồn, trong tư tưởng với những  xúc cảm giữa đời thường đã được nhạc sĩ 
gửi gắm trong những ca khúc của  mình. Điều đó thể hiện qua cái nhìn về 
cuộc đời, về con người, về tình  yêu. 
Phật giáo – một trong ba 
tôn giáo lớn của thế giới, có ảnh  hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội 
của người Phương Đông. Phật giáo  không chỉ đơn thuần là một tôn giáo 
thể hiện tín ngưỡng con người mà còn  thể hiện tư tưởng triết học qua 
cái nhìn và cách lý giải về con người,  về đời sống, về xã hội. Ở Việt 
Nam, Phật giáo được truyền vào rất sớm,  từ thế kỷ I và II, đến thời Lý –
 Trần (thế kỷ X và XIV) Phật giáo đã là  quốc đạo, từ triều Lê đến triều
 Nguyễn (thế kỷ XV đến XIX) Phật giáo  không còn ở địa vị quốc đạo nhưng
 chỗ đứng của Phật giáo vẫn còn vững  chắc trong đời sống con người Việt
 Nam. 
Tư tưởng triết học trong  Phật giáo thể hiện quan niệm về 
thế giới, về con người. Triết lý Đạo  Phật cho rằng: Thế giới này là thế
 giới vật chất, biến đổi không ngừng  (vô thường) và mỗi sự vật hiện 
tượng đều bị chi phố bởi quy luật Nhân –  Duyên, Sắc – Không là hai dạng
 tồn tại của vật chất, thời hạn, thời  gian, không gian là vô cùng, vô 
tận. Quan niệm này được bộc lộ ở hai  phạm trù vô ngã, vô thường. Về con
 người, Phật giáo cho rằng: “Đời người  là bề khổ”. Khổ đau là vô tận và
 tuyệt đối. Phật ví sự khổ của con  người bằng hình ảnh “nước mắt của 
chúng sinh nhiều hơn nước biển”! 
Phạm  trù vô ngã của triết học 
Phật giáo chưa đựng tư tưởng biện chứng mối  quan hệ giữa tồn tại và 
không tồn tại. Xét từ góc độ cảm tính, đặt trong  sự so sánh giữa cái 
hữu hạn và cái vô hạn thì quan niệm Phật giáo cho  rằng cái hữu hạn 
không tồn tại, cái vô hạn tồn tại. Nếu xét từng mối  quan hệ so sánh với
 các giá trị khác thì sự tồn tại của các sự vật hiện  tượng cảm tính chỉ
 là vô cùng nhỏ bé về mặt không gian và thời gian.  Phải chăng vì thế mà
 ca khúc của TCS – lời thương cho thân phận ngắn  ngủi của kiếp người 
sao mà đau đáu đến da diết, buồn thương đến tuyệt  vọng?! Những ca khúc 
phản chiến của TCS đã thể hiện cái không khí chết  chóc, đau thương của 
chiến tranh, sự ngắn ngủi của kiếp người, cái bấp  bênh của thân phận. 
Những giọt nước mắt, những cái chết bi thương, những  nỗi đâu không gì 
bù đắp được thể hiện trong ca khúc Da vàng. Tuy nhiên,  lời thương cho 
thân phận làm người trong những ca khúc Da vàng là lời  thông cảm, yêu 
thương dành cho những nạn nhân trong chiến tranh. Đó là  thân phận con 
người trong chiến tranh loạn lạc nói riêng. Còn những ca  khúc trữ tình 
của TCS lại nói về nỗi đau khổ chung của con người khi  hiện hữu giữa 
cuộc đời này. Dù sự hiện hữu ấy thật ngắn ngủi. Ngay trong  cái khoảnh 
khắc ngắn ngủi của kiếp người thì tình yêu lại càng ngắn  ngủi. Tính đến
 và đi như một cánh vạc cuối trời, vụt hiện, vụt mất. Tình  có, tình 
không như những cơn mưa cuối chiều muộn mằn, vội vã. Một điều  ta cảm 
nhận được từ nhạc Trịnh chính là tình thì hư vô mà nỗi đau lại  rất 
thật; tình không tồn tại mà xót xa ngậm ngùi lại hiện hữu rõ ràng:  Cuộc
 tình nào đã ra khơi khi ta còn mãi nơi đây. Từng người tình bỏ ta  đi 
như những dòng sông nhỏ. Ôi! Những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là  những 
cơn mưa (Tình xa); hoặc Tình yêu như thắp sáng con tim tật nguyền.  Tình
 lên êm đềm rộn ràng nhưng chóng quên, vội vàng nhưng biến nhanh.  Tình 
mong manh như nắng (Tình sầu). Giống như Rabindranath Tagore  
(1862-1941) nhà thơ lớn, nhà văn hóa lỗi lạc của Ấn Độ đã so sánh tình  
yêu là những gì rất mênh mông bất tận nhưng lại vô hình: Em ơi, đời anh 
 là một trái tim/ Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó/ Em là nữ hoàng
  của vương quốc đó/ Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu. Và 
TCS  cũng đã so sánh tình yêu như nắng, như gió hay như một đóa quỳnh nở
 muộn  giữa đêm. Tất cả đều rất đẹp nhưng lại khó nắm bắt và vội qua 
mau. Ở  đây cái hữu hạn không tồn tại là tình, còn cái vô hạn luôn tồn 
tại là  nỗi sầu mênh mang. Chính cái đẹp đã được thăng hoa từ nỗi mất 
mát, từ  cái không tồn tại của tình yêu. Và vô ngã chính là nguyên nhân 
dẫn đến  “vô thường”. Theo quan niệm của nhà Phật thì thế giới luôn vận 
động,  biến đổi không ngừng. TCS dường như đã thấu hiểu điều đó và hiểu 
rằng  tình vụt mất vì con người, lòng người luôn biến đổi. Vì thấu hiểu 
nên  bao người đã đến rồi đi qua cuộc đời, không còn gì, có chăng chỉ 
một vết  xước trong trái tim rớm máu. Thế nhưng, không một lời hờn trách
 dù còn  muôn trùng nỗi nhớ: Em đi biền biệt trùng quá. Từng cơn gió và 
từng cơn  gió. Em đi gió lạnh đến xa bờ. Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi 
nhớ (Còn ai  với ai). Hiểu được quy luật của thế gian này, tình yêu này 
thì oán trách  đâu có nghĩa lý gì. Đối với nhạc sĩ, tất cả chỉ là những 
Vết thương hồn  nhiên, trong nỗi đau tình cờ. Vì thế dù em đã xa nhưng 
em Hãy cứ vui  chơi cuộc đời, đừng cuồng điên mơ trăm năm sau, còn đây 
em ngọt ngào  đứng bên này yêu dấu. 
Được mất là lẽ thường, không
 có gì tồn tại  mãi mãi và cũng đừng ảo tưởng về sự bất biến của lòng 
người. Vậy nên,  em không cần bận bịu gì vì để lại sau lưng cuộc tình 
một tâm hồn hoang  vu, một cõi lòng tan nát mà vẫn đầy thương mến. Tình 
thương mến ấy như  bao trùm lên cả khoảng cách của sự chia xa, của nỗi 
đau ẩn giấu trong  tâm hồn để Ru em dù đã chia xa. Ru em tình nghĩa vu 
vơ. Yêu em yêu thêm  tình phụ. Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ (Ru em). 
Em và tình như đóa hoa  vô thường nên cho dù đã chờ ở kiếp trước, đã hẹn
 ở kiếp này nhưng chia  xa vẫn không thể tránh khỏi. Tình đến, tình rộ 
rồi tình tàn lụi, héo rữa  và chết đi cũng là chu trình “Thành, trụ, 
hoại, không” như đời người  “Sinh, lão, bệnh, tử”. Mất đi để đầu thai 
kiếp khác. Tình chết đi để tái  sinh cuộc tình mới. Cái còn thì chẳng 
còn, cái mất thì chẳng mất. Tình  cũng như thế giới này, sinh sinh diệt 
diệt, biến chuyển không ngừng. Đã  là quy luật thì cưỡng lại sao lời cảm
 tạ: Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ  ơn người, tạ ơn đời đã đưa em về 
chốn này (Tạ ơn); hãy cùng bước đi cho  bình minh đang tới, cho đời chút
 ơn biết tà áo nọ. Em là đóa hoa cho  đời sắc hương, là lời hát ca cho 
trần gian (Cho đời chút ơn) và Em đã  cho tôi, cho tôi bầu trời. Em đã 
cho tôi thêm yêu loài người (Em đã cho  tôi bầu trời). 
Sẽ có 
người cho rằng: Nếu nhạc sỹ họ Trịnh không  oán trách người tình sao 
những ca từ lại ảo não, đau đớn đến như vậy  Tình réo, tình âm thầm, sầu
 réo sầu bên bờ vực sâu hoặc Tình yêu như nỗi  chết cơn đau thật dại, 
tình không môi cười hay Xin vỗ tay cho đều khi  đêm đổ xuống đời ta. Xin
 vỗ tay cho đều khi tình tôi đã trôi xa và Xin  ngủ trong vòng nôi, ta 
ru ta ngậm ngùi. Đã có người cho rằng: Âm nhạc  của TCS chịu ảnh hưởng 
của chủ nghĩa hiện sinh. Đã là chủ nghĩa hiện  sinh thì con người bao 
giờ cũng cô đơn, thấy cuộc đời mình “như thừa  ra”, xã hội như không có 
nhu cầu gì về sự tồn tại của mình, con người  không đối tượng hóa được 
nên cuộc đời thành vô nghĩa. Đó là nỗi đau khổ  của con người. Điều đó 
cũng chưa hẳn, tuy ít nhiều nhạc sỹ họ Trịnh chịu  ảnh hưởng của Albert 
Camus khi tự ví mình là phận cỏ hèn: Đời ta có khi  tựa lá cỏ, ngồi hát 
ca rất tự do hoặc Sống chết mong manh như thân cỏ  hiền mọc đầy núi non.
 Tuy nhiên, TCS cũng không cho rằng “mình là người  thừa ra”, mình không
 đứng ngoài lề của cuộc đời này và nỗi buồn thương,  sầu khổ và tuyệt 
vọng cũng không phải lời tách cứ, không phải là nỗi  niềm nuối tiếc. Đó 
là tiếng lòng yêu người và đó là bể khổ, bể khổ của  cõi tình. Bản chất 
con người là khổ mà yêu lại càng khổ. Khổ không phải  vì bị phụ lòng, 
khổ không phải vì mất tình yêu mà khổ vì còn là người và  còn yêu, mãi 
yêu. Tránh sao được cái khổ của đời, của tình? Thế nên,  tốt nhất là đối
 mặt với nó, gặm nhấm nỗi cô đơn muộn phiền bên bãi đời  hiu quạnh, trên
 lòng đường buồn tênh, trong bóng đêm heo hút, giữa tường  trắng lặng 
câm. 
Những tình khúc của TCS là sự kết hợp giữa  triết lý nhà 
Phật và trái tim yêu người của ông. Vì đời là tình, người  là tình nên 
quan niệm nhân sinh của ông cũng kết tinh trong chữ Tình.  Đời người hư 
vô thì tình cũng là hư vô, đời người ngắn ngủi nên tình  cũng thật ngắn 
ngủi. Thế giới này luôn biến đổi thì tình cũng luôn thay  đổi, đời là bể
 khổ thì tình cũng là bể khổ. Hai yếu tố Đạo và Tình đã  gắn kết với 
nhau, nhạc sĩ nhìn tình yêu của cuộc đời bằng tư tưởng nhà  Phật để tạo 
nên những tác phẩm bất hủ. Vậy nên, ta thường bắt gặp trong  những tình 
khúc của ông quy luật bất biến của thế giới này theo quan  niệm nhà Phật
 – “Gọi tên bốn mùa” là một ví dụ điển hình. Bài hát bắt  đầu từ sự luôn
 chuyển của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông để thấy được sự  luôn chuyển của
 cuộc đời, của tình yêu và thấy được từ khi tình yêu đến  cho đến lúc 
tựa cánh chim bay. Để rồi kết thúc nhạc phẩm là một lời ai  oán não nề 
Trẻ thơ ơi! Trẻ thơ ơi! Tin buồn từ ngày mẹ cha mang nặng  kiếp người. 
Trong
 ca khúc “Ngẫu nhiên” nhạc sỹ đã lý giải sự  hiện hữu của con người và 
vạn vật của cuộc đời này là ngẫu nhiên mà mỗi  chúng ta cũng không biết 
được điểm đến, điểm dừng, điểm đi của thân phận  mình Không có đâu em 
này, không có cái chết đầu tiên và có đâu bao giờ,  đâu có chết sau 
cùng. Hòn đá lăn bên đồi, hòn đá rớt xuống cành mai,  rụng cánh hoa mai 
gầy, chim chóc hót tiếng qua đời. Người ôm lấy muôn  loài nằm trong 
tiếng bi ai. Cuộc sống ngẫu nhiên còn cái chết là tất  nhiên nên con 
người với cuộc đời này chỉ là “Ở trọ”: Tôi nay ở trọ trần  gian, bâng 
khuâng vì những đôi mắt rất hồng. Cũng từ quan niệm ấy mà  nhạc sỹ đã 
hiểu điều trong Kinh thánh viết “cát bụi lại trở về với cát  bụi”: Bao 
nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như  vôi. Lá úa 
trên cao rụng đầy. Cho trăm năm vào chết một ngày. Phải! Trăm  năm rồi 
cũng kết thúc bởi thân phận con người là thế. Cái chết là lẽ tự  nhiên, 
là một cõi đi về của đời người, vì thế Đường nào dìu tôi đi đến  cơn 
say. Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời. Dù thật lệ rơi lòng không  
buồn mấy. Giật mình tỉnh ra ô nắng lên rồi (Bên đời hiu quạnh). Chỉ một 
 câu hát mà chứa đựng biết bao nguồn cảm xúc. Lòng không buồn bởi lẽ 
sinh  tử là chuyện thường tình, thế nhưng lệ rơi vẫn thể hiện sự gắn bó,
 yêu  thương đối với trần thế và thoát khỏi cơn mơ thấy màu nắng lên vẫn
 hy  vọng đợi chờ vào một ngày mai. Dù rằng, đối với tư tưởng Phật giáo 
thì  muốn thoát khỏi bể khổ con người phải hướng tới nghiệp lành, diệt 
trừ  nghiệp ác. Ở nhạc Trịnh khổ cũng là tình mà sự cứu rỗi, giải thoát 
cũng  chỉ là tình. Tình là một cõi đi về của bước chân vô định mà nhạc 
sỹ họ  Trịnh đã bước trên cõi đời này. Dù phiêu du một đời, dù không còn
 ai, dù  có đêm thấy mình là thác đổ, dù có lúc giật mình vì chiếc lá 
thu phai,  thì bên bước chân của kẻ lữ hành cô độc ấy vẫn là tình. Tình 
đối với  người, đối với đời. Nhạc Trịnh buồn, nhiều ý kiến cho rằng sướt
 mướt,  rên rỉ nhưng xét cho cùng thì: Nếu không yêu cuộc đời này thì 
sao phải  buồn khi xa nó? Nếu không yêu người thì sao phải sầu héo khi 
xa người?  Nếu không thương kiếp đời người thì sao phải buồn thương cho 
số kiếp làm  người? Điều mà trong quan niệm nhà Phật tâm niệm và được 
thể hiện qua  nhạc Trịnh là tình yêu thương dành cho con người. Đó chẳng
 phải là chiều  sâu của tính nhân bản sao? Và phải chăng là lý do mà mỗi
 người trong  chúng ta ai ai cũng từng cất tiếng hát hoặc thấy ngân nga 
trong hồn giai  điệu của một Diễm xưa, tình xa hay Một cõi đi về. 
Khi
 nói về  nhạc tình của TCS, người đời gọi ông là “kẻ du ca về phận 
người”, “sứ  giả của tình yêu”, “người hát rong của thế kỷ XX”, hoặc như
 Hoàng Phủ  Ngọc Tường, một nhà văn, một nhà phê bình văn học, một con 
người xứ Huế,  một người bạn gắn bó với Trịnh Công Sơn đã từng cho rằng;
 khỏi phải e  ngại rằng TCS định làm triết lý thay vì âm nhạc. Điều mà 
Hoàng Phủ Ngọc  Tường muốn nói tới: TCS muốn “mượn” âm nhạc để thể hiện 
những quan niệm,  tư tưởng của mình về cuộc đời, về con người. Nhưng 
chưa hẳn như vậy,  nhạc của TCS được thăng hoa từ những cảm xúc yêu 
thương từ những nỗi đau  ngọt ngào vì con người, vì cuộc sống mà ẩn chứa
 trong đó là cái nhìn  mang tính triết lý, triết lý của nhà Phật… 
Những
 tư tưởng triết  lý của Phật giáo đã vượt qua giới hạn của một tôn giáo 
để đi vào đời  sống xã hội và tâm thức con người. Không chỉ những tín đồ
 Phật giáo mà  cả những người bình thường cũng chịu ảnh hưởng của tư 
tưởng ấy trong  cách nghĩ, cách sống, cách ứng xử. Nhạc tình của TCS do 
ảnh hưởng của  quan niệm Phật giáo nên tình thương đối với con người rất
 sâu sắc, tấm  lòng của con người đối với con người đã trở nên rất nhân 
hậu, bao dung.  “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” - Phải chăng 
đó là cái tâm  theo quan niệm của Đạo Phật. Với nhạc TCS những tư tưởng 
triết lý ấy  được nói lên tự đáy lòng của ông, từ xúc cảm rất thật của 
ông trước cuộc  đời. Nó không chỉ nói lên những suy nghĩ, những triết lý
 của ông về  cuộc đời mà nó còn nói hộ tấm lòng, suy nghĩ của những mảnh
 đời ngắn  ngủi, những tình yêu chợt hiện, chợt mất. Có thể vì lẽ đó mà 
nhạc tình  TCS đã đi vào lòng người một cách tự nhiên như một lẽ thường 
tình, và nó  còn sống với đời sống tinh thần của nhiều người Việt Nam 
như sự sống  của tôn giáo –Phật giáo.
Trần Thanh Hà
http://trinhcongson.org/