Ở đây người viết chỉ viết
lại một số sử kiện theo thời gian đã phổ biến thành một bài viết ghi
nhận những đóng góp vì mục đích phát triển Phật giáo của họ.
Hai thương nhân Trapusha và Bhallika dâng cúng phẩm lên Đức Phật. Những đóng góp nổi bật nhất của giới thương gia xuyên suốt
lịch sử hoằng pháp của Phật giáo Ấn Độ là xây dựng chùa tháp làm cơ sở hoằng
pháp và hỗ trợ phương tiện đưa các nhà truyền giáo đến những vùng đất mới để
truyền bá Chánh pháp. Ngay từ những trang đầu của lịch sử Phật giáo đã ghi nhận
những công đức của họ. Sử Phật giáo ghi lại rằng sau khi chứng đắc Vô thượng
Bồ-đề, Đức Phật lưu lại Bồ Đề Đạo Tràng thêm 7 tuần. Trong thời gian này, hai
thương buôn Trapusha và Bhallika cùng với hàng trăm tùy tùng đã có duyên lành
diện kiến Đức Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng. Họ dâng cúng vật thực lên Đức Phật và
nguyện làm Phật tử tại gia. Để tăng thêm tín tâm cho họ, Đức Phật trao tặng hai
thương gia này một ít tóc của Ngài. Với lòng thành kính của Phật tử tại gia, họ
đã xây tháp cúng dường xá-lợi Phật tại quê hương của họ. Đây có thể được xem
lại những bảo tháp đầu tiên của Phật giáo. Theo lời Phật dạy trong kinh Đại
bát Niết-bàn thuộc kinh Trường bộ, xây dựng bảo tháp tôn thờ xá-lợi
Phật là một trong những phận việc mà người Phật tử tại gia cần làm để không
những tăng trưởng tín tâm cho chính họ mà còn làm tăng trưởng tín tâm cho nhiều
người xung quanh. Như vậy, việc xây tháp cúng dường của hai thương gia này cũng
là một hình thức phổ biến Phật giáo. |
Và những trang sử đầu của lịch sử
hoằng pháp cũng ghi lại những sự đóng góp của giới doanh nhân. Đó là những đóng
góp của các thương gia tại thành phố Ba-la-nại (Varanasi), một trung tâm kinh tế lớn của Ấn
Độ cổ đại và nơi Tam bảo được thành lập và bánh xe Chánh pháp được vận chuyển.
Như chúng ta đã biết, vâng lời dạy của Đức Phật, 60 thầy Tỳ-kheo A-la-hán đầu
tiên, trong đó có Tôn giả Da Xá và 54 bạn thân của Tôn giả, đã rời vườn
Lộc Uyển du hóa trong nhân gian vì lợi ích của số đông. Công cuộc hoằng hóa của
quý ngài và Tăng đoàn Phật giáo được sự hỗ trợ rất nhiều từ những gia đình
thương gia thành Ba-la-nại trong đó có gia đình của 55 Tôn giả thành Ba-la-nại.
Nhờ vậy, mặc dù Đức Phật ít trở lại thành Ba-la-nại nhưng Phật giáo Ba-la-nại
cũng phát triển nhanh, là một trong sáu trung tâm lớn của Phật giáo như lời đề
cập của Tôn giả A Nan để thỉnh cầu Đức Phật vào Niết-bàn tại những trung tâm
Phật giáo lớn này. Lịch sử hoằng pháp của Phật giáo về sau cũng ghi nhận nhiều
đóng góp của giới thương gia thành Ba-la-nại trong suốt thời gian hơn 1.000 năm
Phật giáo phát triển tại Ba-la-nại.
Từ Ba-la-nại (Varanasi), Phật giáo
được truyền đến và phát triển sâu rộng tại hầu hết các đô thị lớn của những
quốc gia giàu mạnh nhờ tận dụng sự phát triển của kỹ nghệ đồ sắt để khai thác
tiềm năng kinh tế dọc theo hạ lưu sông Hằng. Những thương gia Phật tử, trực
tiếp hoặc gián tiếp, tiếp tục đóng góp cho sứ mệnh truyền bá và phát triển Phật
giáo ở những đô thị lớn này. Trong số những thương gia Phật tử, nổi bật nhất là
Trưởng giả Cấp Cô Độc của kinh thành Xá-vệ. Sau khi quy y Tam bảo, ông phát
nguyện hộ trì Tam bảo. Công đức hộ trì Tam bảo của ông rất lớn và rất nhiều.
Một trong những công đức đó là sự kiện ông đã sẵn lòng mua toàn bộ khu vườn của
Thái tử Kỳ Đà bằng cách lót vàng để xây tinh xá dâng cúng lên Đức Phật và chúng
Tăng. Và như ước nguyện của ông, tịnh xá Kỳ Hoàn này đã trở thành một trong
những trung tâm sinh hoạt tôn giáo lớn nhất của Phật giáo. Hơn phân nửa số bài
kinh của kinh tạng Nikaya và nhiều giới luật của Tỳ-kheo được Đức Phật giảng
dạy và thuyết chế tại tịnh xá này.
Sau Phật diệt độ, Phật giáo tiếp
tục phát triển và truyền rộng khắp Ấn Độ và truyền sang các nước Á-Âu. Trong
suốt nhiều thế kỷ trước và sau Tây lịch, Phật giáo luôn là một trong những tôn
giáo chính, có nhiều giai đoạn, là tôn giáo chính tại Ấn Độ. Trong thời gian
Phật giáo phát triển này, chúng ta thấy rằng những trung tâm lớn của các bộ
Phật giáo thường phát triển ở những trung tâm kinh tế lớn hoặc trên những trục
lộ giao thương giữa các tiểu vương quốc ở Ấn Độ. Những chi phái của Đại chúng
bộ, Hữu bộ và Đại thừa được thành lập và phát triển ở Tỳ-xá-ly (Vaiśāli), trung
tâm kinh tế của triều đại Nanda; ở thành Hoa Thị (Pataliputra), trung tâm kinh
tế của triều đại Khổng Tước (Maurya); ở Gandhara và Kashmir, những trung tâm
kinh tế của triều đại Kusāṇa
(vua Kaniska). Hoặc ở Nam
Ấn, những quần thể hang động Phật giáo ở Auragabad hay Mumbai và những tu
viện lớn của Đại chúng bộ và Đại thừa ở Amarāvati và Nāgārjunakoṇḍa đều nằm gần những trung tâm kinh tế của triều đại
Śātavāhana hoặc trên trục lộ giao thương. Sự phát triển Phật giáo gắn liền với
những trung tâm kinh tế cho thấy sự gắn kết giữa Phật giáo và các thương gia.
Bia ký và lịch sử của những trung tâm Phật giáo này ghi lại nhiều đóng góp của
các thương gia giàu có tại địa phương cũng như những thương gia vãng lai.
Không chỉ hỗ trợ để phát triển
Phật giáo trong nước, các thương gia còn hỗ trợ các Tăng sĩ để truyền bá Phật
giáo sang các nước. Lịch sử Phật giáo chỉ ghi nhận những đoàn truyền giáo được
gửi ra nước ngoài bởi vua A Dục khoảng 200 năm sau Phật diệt độ. Ngoài những
đoàn truyền giáo được hỗ trợ bởi vua A Dục, phần lớn các đoàn truyền giáo khác
thường được hỗ trợ bởi các thương gia mặc dù lịch sử ít ghi nhận trực tiếp
những đóng góp này. Phật giáo được truyền từ Ấn Độ sang khắp nước châu Á bằng
hoặc đường thủy hoặc đường bộ. Đường thủy thường xuất phát từ các hải cảng phía
Đông Ấn hoặc phía Đông nam Ấn Độ. Đường bộ thường xuất phát từ các trung tâm
kinh tế lớn ở Tây bắc Ấn đi qua Con đường Tơ lụa và đến Trung Hoa. Bằng đường
biển, các nhà hoằng pháp Phật giáo thường đi trên các thương thuyền của các
thương gia Phật tử và mang Phật giáo đến các nước như Sri Lanka, Myanmar, Thái
Lan, Lào, Combodia, Việt Nam và cả Trung Quốc. Bằng đường bộ, các nhà truyền
giáo được sự hỗ trợ của thương gia Phật tử đi trên những đoàn xe để mang Phật
giáo đến hầu hết các nước Trung Á và sau đó đến Trung Hoa.
Phật giáo đã có mặt tại nhiều quốc
gia châu Á từ thế kỷ thứ nhất trước và sau Tây lịch. Tuy Phật giáo đã có mặt
tại các quốc gia này, nhưng rất ít sử liệu ghi lại sự hiện diện của các Tăng sĩ
truyền giáo. Vì vậy, có thể thời gian đầu, Phật giáo được mang đến nhiều quốc
gia châu Á bởi các thương gia Phật tử. Có thể rằng trong thời gian lưu trú ở
các quốc gia này chờ ngày thuận gió để căng buồm trở về Ấn Độ, các thương gia
Phật tử thành lập đạo tràng nho nhỏ để tu tập, và thỉnh thoảng hướng dẫn tụng
đọc kinh Phật và giảng dạy giáo lý cho những người bản địa mà họ quen biết.
Trong những lần như vậy, họ cảm thấy người dân nơi đây cũng có duyên với Phật
pháp nhưng với khả năng giới hạn của Phật tử tại gia, họ không thể phát triển
Phật giáo ở những nơi đó, nên trong những chuyến thương buôn kế tiếp, họ đã
thỉnh mời các nhà hoằng pháp mang Phật giáo đến những nơi ấy. Và những nhà
hoằng pháp Phật giáo đã theo những đoàn thương buôn, hoặc bằng đường bộ hoặc
bằng đường thủy đến những quốc gia mới để hoằng pháp độ sinh.
Tuy nhiên, những đóng góp nổi bật
nhất của các thương gia là xây dựng chùa tháp và tôn tạo hình tượng Phật và
Bồ-tát. Lịch sử ghi lại và nhiều nơi vẫn còn dấu tích cho thấy các thương gia
Phật tử đã tôn tạo rất nhiều chùa tháp, hang động và hình tượng Phật và Bồ-tát tại
nhiều nơi trên Con đường Tơ lụa xuyên Á-Âu và một số nơi trên những quần đảo
thuộc các quốc gia Đông Nam Á. Có thể không phải tất cả trong số họ nghĩ là họ
đang làm nhiệm vụ truyền bá Chánh pháp. Nhiều trong số họ tôn tạo tượng Phật,
Bồ-tát và xây dựng chùa tháp chỉ để tu tạo công đức cầu sự bình an cho những
chuyến buôn xa nhiều hiểm nguy của họ. Nhưng dù là vậy, những việc làm của họ
cũng là những đóng góp rất lớn trong sứ mệnh truyền bá Chánh pháp.
Liên quan đến vấn đề này, có một
câu hỏi được một số người nêu ra là, tại sao giới thương gia lại nhiệt tâm hỗ
trợ cho sứ mệnh phát triển và truyền bá Phật giáo? GS. Sree Padma đưa ra một số
lý do để trả lời cho câu hỏi này. Theo GS. Sree Padma, sự hỗ trợ của họ, ngoài
những lý do tôn giáo như tích tạo phước đức…, còn có lý do kinh tế. Thứ nhất,
Phật giáo chủ trương xóa bỏ giai cấp. Vì vậy, họ là những tín đồ Phật giáo thì
họ dễ dàng tiếp xúc với những đối tác kinh tế thuộc nhiều tầng lớp Phật tử khác
nhau từ vua quan cho đến nông dân. Sự quan hệ vừa có tính thương mại vừa có
tính tôn giáo giúp họ tạo được sự tin tưởng hơn cho đối tác thương mại
của họ. Thứ hai, các thương gia tôn tạo nhiều chùa tháp ở những trung tâm
kinh tế lớn hay trên trục lộ giao thương, bên cạnh lý do tôn giáo, còn muốn
chứng tỏ với mọi người rằng họ là những người không phải chỉ giàu có về vật
chất, mà còn giàu có về tâm linh. Và thứ ba, cũng theo GS. Sree Padma, nhiều
tháp lớn được xây dựng ở những địa điểm trọng yếu trên trục lộ giao thương, đặc
biệt là những tháp lớn gần những con sông lớn hay bờ biển cũng để làm tín hiệu
xác định phương hướng cho những thương thuyền, và nhiều tu viện lớn được xây
dựng tại những giao trục thương mại, cũng giúp cho các đoàn thương buôn có chỗ
dừng nghỉ để tiếp tục những chuyến buôn xa.
Theo chúng tôi, những đóng góp của
giới thương gia có thể có lý do kinh tế hoặc quảng bá thương hiệu nhưng phần
lớn việc làm của họ là vì lý do tôn giáo. Và những lý do kinh tế, nếu có, chỉ
có ở những vùng hay quốc gia mà Phật giáo đã phát triển và là tôn giáo lớn. Còn
sự đóng góp của họ để Phật giáo được truyền đến và phát triển ở những vùng đất
mới hoàn toàn là vì lý do tôn giáo.
Tóm
lại, có thể nói rằng tầng lớp thương gia Phật tử đóng góp rất nhiều cho sứ mệnh
phát triển Phật giáo tại Ấn Độ và truyền bá Phật giáo sang các nước. Tuy nhiên,
mẫu người thương gia hộ trì Chánh pháp lý tưởng là mẫu người không chỉ hộ trì
Tam bảo bằng cách cúng dường tài vật, mà còn hộ trì Tam bảo bằng cách tu tập
theo lời dạy của Phật. Điển hình là Trưởng giả Cấp Cô Độc. Ông không chỉ là một
thương gia giàu có nhất kinh thành Xá-vệ và là một trong những Phật tử tích tạo
nhiều công đức nhất trong lịch sử Phật giáo, mà còn là một trong số những Phật
tử tại gia chứng đắc quả vị tâm linh cao nhất, quả vị Tu-đà-hoàn, một trong bốn
Thánh quả Thanh văn.