Trong
thời kỳ làm hoàng đế, vua Minh Mạng và vương triều Nguyễn đã có những
việc làm thiết thực để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 104, năm Minh
Mạng thứ 14 (1833) chép: “Vua bảo bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng
Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt
được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường bị nạn. Nay nên dự bị
thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và
trồng cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ
hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.
Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ,
quyển 154, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép: “Hoàng Sa ở hải phận Quảng
Ngãi, có một chỗ nổi cồn trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái
giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lí ba bình”
(tức là muôn dặm sóng êm).
Cồn Bạch Sa có chu vi 1070 trượng, tên
cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn
quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi
lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát gọi là
Bàn Than thạch. Năm ngoái (tức năm 1834) vua toan dựng miếu lập bia chỗ
ấy, bỗng vì sóng gió không làm được.
|
Bản dập Mộc bản triều Nguyễn phản ánh vua Minh Mạng cho giúp đỡ tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa. |
Đến đây, mới sai Cai đội Thủy quân là
Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng
Ngãi và Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7
trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mười
ngày làm xong rồi về”.
Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ,
quyển 176, trang 1, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép: “Mùa đông, tháng
12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc
cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình
Định.
Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ
trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch
lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không
thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt. Phái viên về tâu, vua
nói: "Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn chẩn tuất, bỗng
cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen". Sai thưởng cho
thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải
tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải
màu. Sắc sai phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa
họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.
Từ những việc làm như trồng cây, lập miếu
thờ ở Hoàng Sa hay cho cứu vớt tàu phương Tây bị mắc cạn ở Hoàng Sa đã
cho thấy vương triều Nguyễn có chủ quyền riêng ở quần đảo này. Bên cạnh
đó, Mộc bản triều Nguyễn và các sách lịch sử khác chưa hề phản ánh việc
các nước khác tranh chấp với triều Nguyễn trên quần đảo Hoàng Sa.
Theo Bee.net