Chúng tôi bình giảng bài thơ này trong khoá an cư tại chùa Bửu Nghiêm,
văn phòng Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Gia Lai - PL. 2552.DL. 2008 ).
Mấy ngày qua (10 -11/6/2018) để thể hiện lòng yêu nước, một vài bộ phận nhân dân ở đây
đó đã tụ tập làm reo, có nơi thì ôn hòa, có nơi đã bị kích động mất kiểm
soát, dẫn đến bạo động, đáng tiếc thay ! Nhân sự việc xáo trộn như thế,
chúng tôi đăng lại bài viết về Pháp Thuận thiền sư, để cùng suy ngẫm
lời dạy của Ngài cho Vua Lê Đại Hành.
Nên nhớ rằng, qua lời dạy
của thiền sư Pháp Thuận, Vua Lê Đại Hành đã khéo vận dụng liên kết nhân
tâm để cùng chống ngoại xâm. Kết quả, quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh
bại quân đội Đại Tống.
-------------------------------
PHÁP THUẬN THIỀN SƯ ( 915-990 )
Thích Giác Tâm
Thiền sư là người ra đi không để lại dấu vết, chính điều đó nói lên
tinh thần thiền tông (bất lập văn tự), khiêm hạ, ẩn danh, vô ngã. Tuy
nhiên có điều bất lợi so với cách luôn ghi chép từng biến cố nhỏ lớn,
từng sự kiện nhỏ to, trong đời mình cũng như trong xã hội mình đang sống
như người phương tây, nên phật giáo Việt Nam chúng ta tư liệu thật nghèo
thiếu, một phần nữa là do ngoại nhân đưa về Kim Lăng đốt để huỷ diệt
văn hoá, chính điều đó khiến tiểu sử các vị thiền sư lại càng sơ sài,
ngắn gọn. Một vài trường hợp quá ngắn như tiểu sử thiền sư Pháp Thuận .
Thiền uyển tập anh còn ghi lại tiểu sử Ngài tóm tắt như sau :
Pháp Thuận thiền sư ( 915-990 ) họ Đỗ, không rõ tên thật và quê quán,
thuộc thế hệ thứ mười dòng thiền nam phương. Xuất gia từ nhỏ, thờ thiền
sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Đắc pháp, nói ra lời nào cũng hợp với
sấm ngữ. Sư học rộng có tài, hiểu rõ việc nước, đang lúc nhà Tiền Lê
mới dựng nghiệp, giúp vua trù kế hoạch, định sách lược. đến khi thiên hạ
thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành kính trọng, chỉ
gọi là Đỗ Pháp Sư, không gọi tên, đem mọi việc văn thư giao phó. Cùng
với Sư Khuông Việt, Pháp Thuận là cố vấn của triều đình , có lần cùng
với Sư Khuông Việt, được cử tiếp đón sứ thần nhà Tống là Lý Giác. Tài
ứng đối làm Lý Giác ngạc nhiên kính phục. Vua Lê Đại Hành thường đem vận
mệnh nước nhà hỏi Sư .
Hồi tưởng lại đất nước chúng ta trong
triều đại Đinh, Lê , Lý Trần, chúng ta đã thấy được các triều đại đó hết
sức nhân bản, khoan dung và tôn trọng hiền tài. Vua thì quyền uy tột
đỉnh, nắm sinh mạng quốc gia và sinh mạng thần dân trăm họ trong tay,
trọn quyền sinh sát, vậy mà vì sự tồn tại của vận nước , vẫn khiêm hạ
mời các vị Sư tài đức về triều đình tham vấn chính sự quốc gia, có khi
đến cả Am Viện của các thiền sư tham vấn những trăn trở ưu tư về nhiều
vấn đề thời cuộc mà chính Vua còn phân vân do dự, chưa quyết đoán được.
Vua Lê Đại Hành đã thấy được hiền tài là nguyên khí của quốc gia, có
được những con người uyên bác tài giỏi giúp cho những kế sách , ý kiến
hay sẽ đưa quốc gia đến chỗ thịnh trị, thái hoà. Vua Lê Đại Hành mới lên
chấp chính, thù trong giặc ngoài. Hậu duệ nhà Đinh còn đó, những con
người trung thành với Nhà Đinh vẫn còn ấm ức về một vương triều đã sang
tay kẻ khác. Bên ngoài thì tướng của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo đang tiến
quân vào nước ta , đó là mùa xuân tháng 03 năm Tân Tỵ ( 981).
Lúc
bấy giờ vận mệnh tổ quốc nghiêng ngữa, lòng dân chao đảo, nếu không có
những thiền sưtu chứng , nhiều tuệ giác làm cố vấn cho triều đình, đưa
ra kế sách hay, động viên tinh thần của vua, của triều đình và của dân
chúng, đất nước dễ rơi vào tay ngoại bang, dân tình sẽ lầm thanthống khổ
biết chừng nào. Chúng ta đã thấy được tinh thần nhập thế của các thiền
sư và hành động phụng sự vô vi của các ngài, qua hành động dấn thân đóng
góp cho dân tộc .
Bài thơ Nga nga lưỡng nga nga, không phải là
của ngài. Hai câu đầu là của Lý Giác, hai câu sau ngài hoạ theo, do Ngài
học rộng hiểu nhiều lấy từ điển cố văn học của Trung Quốc. Bài thơ nga
nga lưỡng nga nga là của Lạc Tân Vương, là một tuyệt phẩm mà các bực
thức giả khen là " thi trung hữu hoạ" trong thơ có hoạ, thơ vẽ nên một
hoạ phẩm. Học nhiều hiểu rộng, am hiểu độn số, biết việc gì sẽ xảy ra
trong tương lai, nhưng Ngài để lại cho chúng ta hôm nay còn vỏn vẹn một
bài thơ duy nhất, và cũng là câu trả lời về vận nước của vua Lê Đại Hành
hỏi Sư, đó là bài :
Quốc Tộ --- Việc nước
Quốc tộ như đằng lạc --- Vận nước như mây quấn
Nam thiên lý thái bình --- Trời nam mở thái bình
Vô vi cư điện các --- Vô vi trên điện các
Xứ xứ tức đao binh --- Xứ xứ hết đao binh .
Vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, làm thế nào để cho vận mệnh quốc gia
được dài lâu ? Thiền sư trả lời : Vận nước như mây quấn . Ta phải giữ
gìn đất nước nầy như thế quấn của dây mây, một sợi mây tuy có dẻo dai
nhưng vẫn dễ đứt, dễ gãy nếu ta biết cách bẻ, còn nhiều dây mây quấn lại
thành bó khó có sức mạnh nào bẻ gãy. Trăm họ hướng về Vua với một lòng
tôn kính, vua lấy ý nguyện của dân làm ý nguyện của mình, thương dân như
thương con ruột của mình, nỗi khổ của dân cũng là nỗi khổ của mình. Tìm
cách hoá giải những xung đột nội bộ, giải thích cho những người nội thù
rằng : Quốc gia làm trọng, tổ quốc trên hết, quyền lợi của một cá nhân
cũng như của một dòng tộc là nhỏ so với sinh mệnh mất còn của một quốc
gia. Liên kết nhân tâm lại với nhau như những dây mây riêng lẻ thành một
bó mây, thì không có một thế lực nào có thể xô ngã đè bẹp chúng ta. Và
như vậy thì đất nước sẽ thái bình, nền độc lập dân tộc sẽ vững bền mãi
mãi.
" Vô vi trên điện các - xứ xứ hết đao binh ".
Thiền sư
nói : Muốn cho đất nước được yên bình, khắp nơi khắp chốn không có chiến
tranh, những người lãnh đạo, cụ thể là Vua phải biết cách áp dụng
phương pháp, hay là nguyên lý tu dưỡng vô vi nơi triều đình của mình.
Đạo Lão ở Trung Quốc cũng có khái niệm vô vi, Lão Tử chỉ dạy cho môn đệ
của mình nên sống theo tự nhiên, thuận theo tự nhiên, không làm gì để
can thiệp vào tự nhiên. Lão Tử chủ trương người cầm quyền trong nước nếu
thực hiện được đạo lý vô vi thì đất nước sẽ thịnh trị.
Còn khái
niệm vô vi trong Phật giáo thì có khác hơn. Vô vi dịch từ chữ asamskrta
của tiếng phạn, có nghĩa là không tạo tác, chỉ cho pháp lành thường trụ
không do nhân duyên tạo tác, không có sinh diệt biến hoại, khác với
pháp hữu vi là pháp do nhân duyên tạo tác, có sinh diệt biến hoại, nên
pháp vô vi chính là một tên khác của Niết Bàn. Trong Lục Độ Tập Kinh,
truyện 81 của Phật giáo định nghĩa từ vô vi như sau : " Cẩn thận không
kiêu ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bặm của
sáu tình, không để các ái nhỏ như tóc tơ che dấu trong lòng mình thì các
niệm lắng diệt, đó là vô vi".
Vua là thiên tử - con trời - theo
quan niệm phong kiến. Vua tượng trưng cho quyền lực, sức mạnh của một
thể chế, đế chế. Vua là tối tôn đứng trên thầy và cả người cha sinh ra
mình Quân-Sư-Phụ, vậy mà kinh Phật nhắc nhở cẩn thận không kiêu ngạo.
Vua thì không biết bao nhiêu cung phi mỹ nữ, ăn uống thì sơn hào hải vị,
nem công chả phượng, thuốc bổ quý hiếm trong nhân gian, vậy mà kinh
Phật nhắc bỏ lòng dơ ân ái, không để đắm nhiễm ái dục dù nhỏ như sợi
tóc.
Một chúng dân thực hiện hạnh vô vi thấy đã khó rồi, huống
nữa là đấng quân vương, nhưng mà đấng quân vương nào thực hiện được đạo
lý vô vi như lời kinh Phật, như lời thiền sư Pháp Thuận nhắc nhở vua Lê
Đại Hành, thì vận nước sao không vững bền được ? Sao mà trăm họ không âu
ca thái bình được ? Lời thơ " vô vi cư điện các" hơn một ngàn năm qua
vẫn còn giá trị, và ngàn năm sau nữa chắc chắn vẫn còn giá trị. Vui mừng
thay kho tàng văn học Việt Nam vẫn còn lưu gĩư được những bài thơ chứa
đựng được tư tưởng chính trị của Phật giáo Việt Nam như bài Quốc Tộ.
TGT.
https://www.facebook.com/chuabuu.minh
ĐỌC VÀ SUY NGẪM VỀ BÀI THƠ “QUỐC TỘ” CỦA PHÁP THUẬN THIỀN SƯ.