được lành
bệnh. Có người không có con đến Chùa cầu xin nước uống thì sanh con
trai, con gái đều như ước nguyện. Do vậy mà tiếng đồn lan ra rồi hàng
ngàn nam nữ già trẻ lớn bé kéo nhau về Xuất thủy Tự để dự lễ và xin nước
uống. Nhà vua lúc bấy giờ cũng được dâng nước uống thì thân thể trở nên
khỏe khắn, trăm bệnh đều tan. Xuất Thủy Tự nổi danh như cồn. Ngày nào
cũng có người đứng sắp hàng chờ vào Chùa xin nước chữa bệnh. Tiền cúng
dường của đàn việt không thể kể hết. Lúc bấy giờ Chùa mới sửa sang lại
điện đường nguy nga tráng lệ phòng ốc rộng rãi có khả năng chứa cả vạn
vị tăng. Một hôm nọ chùa đang bận rộn đón khách hành hương đến lễ Phật.
thì chợt xuất hiện 18 tên ăn mày quần áo mỏng manh rách nát và luôn than
đói. Mười tám ăn mày này nói với các vị Tăng đang cai quản chùa ngỏ ý
xin bố thí một bữa ăn. Các tăng nhân trong chùa thấy ăn mày quần áo rách
nát lòng đã không thương hại, lại cố ý xua đuổi. Nhưng 18 ăn mày vẫn ở
lỳ đó không chịu đi. Sau rốt trong Chùa cử một người có uy thế ra mắng
bọn ăn mày rằng: “đây là cửa Phật đất Thánh làm sao chứa được bọn ăn mày
đói cơm dơ dấy như các ngươi. Mau mau hãy ra khỏi cửa Phật”. Những ăn
mày than thở trời tối rồi gió thì lạnh mà cơm không có ăn, chỉ xin Chùa
cho ở một đêm rồi đi ngay. Vị tăng lớn nhất trong Chùa nói rằng: “Ở đây
không có chổ cho các ngươi ngủ, muốn nghỉ ngơi thì đến Chùa Hương Tích
mà ở”. Nói rồi sai mười mấy vị Tăng dẫn bọn ăn mày ra khỏi cổng. Bọn ăn
mày bỗng dưng ngước mặt nhìn trời đồng hát to lên rằng. “Hồn nhiên mà
đi, chừ tùy duyên độ người. Từ bi để lòng, chừ bổn phận thầy Tăng, Công
danh lợi dưỡng chừ vốn thuộc nghiệp ma. Nhân quả rõ ràng chừ Phật tại
Tâm.
Mười tám vị ăn mày đi rồi, các tăng nhân trở lại vào Chùa thì vô cùng
kinh hãi khi thấy trên vách cửa Chùa có viết một câu: “Xuất thủy chẳng
xuất tăng Chỉ lưu một tăng đốt nhang đèn”. Chủ chùa thất kinh sai người
chùi bỏ các chữ ấy. Nhưng càng chùi thì chữ càng hiện rõ hơn. Thầy trụ
trì sai người đập phá bức tường để xây lại mới nhưng khi xây xong thì
câu chữ đó vẫn lại cứ hiện rõ ràng. Thế rồi từ ngày ấy nước trong ao
bỗng đen ngòm không còn tinh khiết nữa và cũng không linh ứng như ngày
xưa nữa. Ai uống phải nước ấy đều bị đau bụng thổ tả. Bị như thế rồi thì
đàn việt không còn đến cúng dường nữa mà chùa lại phải ra bên ngoài cả
vài dặm để xin nước về dùng. Tiếp theo trong chùa lại xảy ra tai họa
liên miên nào là án mạng. Rồi kế đó bọn giặc bị bắt ở kinh thành cung
khai ba năm trước tên thủ lãnh của chúng đã lọt lưới và xuất gia tại
Xuất Thủy Tự cạo đầu làm tăng. Do lời cung khai này mà nhà vua truyền
lệnh tịch biên hết của cải của Chùa xung vào ngân khố triều đình. Gần
một ngàn tăng nhân không còn lý do được cúng dường nên lần lược bỏ Chùa
đi hết. Điền sản, miếu đường to lớn bị quan phủ địa phương thu làm doanh
trại cho lính ở. Chỉ lưu lại đại hùng bửu điện, để những tăng nhân còn
lại làm Phật sự. Sau rốt vì không ai cúng dường nữa, nên chỉ còn một ông
lão tăng già yếu tình nguyện ở lại lo hương quả trong Chùa. Từ đó Xuất
thủy tự không ai nhắc nhở đến nữa.
Nói về Chùa Hương tích chỉ có ba vị tăng tu hành ở đó. Hàng ngày kinh kệ
chuông mõ an phận sống đời đạm bạc. Tình hình bổn đạo cũng không có
cùng dường nhiều nên Chùa trông rất xơ xác thiếu thốn. Tối đó 18 vị ăn
mày bị xua đuổi ra khỏi xuất Thủy Tự thì thẳng đường đi đến Hương tích
Tự. Ba vị Hòa thượng thấy ăn mày đói rách quá thì rất thương xót vội
cùng nhau lấy củi đốt lên để sưởi ấm cho ăn mày. Một người xuống bếp nấu
cơm tiếp đãi. Lại còn sửa soạn chỗ nghỉ ngơi. Trong chùa không có đủ
chăn mền. Các hòa thượng mới tháo 18 cánh cửa trong Chùa làm giường để
chung trong ba phòng rồi lấy rơm làm nệm cho các ăn mày nằm ấm đỡ lạnh.
Các vị Hòa thượng lại bàn với nhau Hay là chúng ta chia nhau vào làng
hóa duyên xem có nhà nào giàu có dư giả thì mượn ít chăn mền về cho các
ăn mày ngủ đỡ. Nói xong thì chia hai người đi vào xóm. Một người ở Chùa
lo dọn cơm.
Lúc bấy giờ trời cũng khuya rồi. Có một vị quan Sát Chánh đi ngủ sớm
nằm mộng thấy có 18 vị A La Hán giáng lâm xuống phủ đệ. Các La Hán tay
nâng một biển vàng vuông trên biển khắc tám chữ: “Lạc thiện hảo thí, tất
hữu hậu phước” (vui làm lành ham bố thí thì ắt có phước về sau). Nằm mơ
thấy như thế thì giựt mình tỉnh dậy, kế lại có gia nhân thông báo ngoài
cửa có hai vị hòa thượng hóa duyên muốn xin bố thí mền. Quan Sát Chánh
nghĩ đến điềm mộng vừa rồi liền ra lệnh cho gia nhân mau mau đem xe bò
chở 13 mềm bông đến cúng dường Chùa Hương tích. Đêm đó các vị ăn mày
được ngủ ấm ăn ngon trong Chùa.
Sáng sớm các vị Hòa thượng thức dậy vẫn băn khoăn bàn với nhau. Nếu
các vị ăn mày này ở đây một đêm rồi đi thì không nói làm gì rủi các vị ở
lại nhiều ngày thì làm sao đủ lo cơm nước. Trong chùa không có nhiều
lương thực từ lâu. Gạo thì cũng giới hạn. Bàn xong thì cả ba đều một
lòng nói rằng: nhân dịp các vị ăn mày còn ngủ mình nên vào thành hóa
duyên nữa xem có được ít lương thực gì đủ làm thức ăn tiếp đãi ăn mày.
Nói xong cả ba đều mau lẹ, phóng nhanh ra khỏi Chùa đạp tuyết nhắm hướng
thành mà đi. Vì tuyết nhiều quá nên phải dùng xẻng mà hốt tuyết. Bỗng
nhiên cả ba đều nghe tiếng nói từ hư không vọng lại: “đừng dẹp tuyết nữa
chúng tôi đi đây”. Ba vị hòa thượng dừng tay thì thấy một đoàn người
vút nhanh và mất dạng trong sương sớm. Ba vị nói với nhau: “những người
ăn mày đã đi rồi chăng? hay là chúng ta vào Chùa xem lại”. Ba người
không theo lối cũ mà hướng về cửa chánh để đi. Đó là chỗ các vị nhìn
thấy bóng của đoàn người lướt đi. Kỳ quái là không nhìn thấy dấu chân
trên tuyết. Hòa thượng trụ trì phóng nhanh vào các phòng ngủ nơi 18 ăn
mày nằm thì càng kinh ngạc hơn!! Trên giường chẳng có bóng người.
Lại nói về vị quan Sát Chánh khi đi ngủ lại trong đêm đó lại nằm mơ
tiếp: Ngài thấy 18 vị A La Hán hiện đến trước mặt. Một vị nói: “ngươi
vốn một đời không có con trai. Vì ngươi có niệm lành nên ta ban cho
ngươi một đứa con trai. Từ nay ngươi hãy thành tâm hộ pháp thờ Phật, con
trai ông sau này tương lai sẽ rực rỡ làm vang danh dòng họ”.
Qua một đêm mà gặp hai điềm mộng thấy A La hán nên Quan Sát Chánh
nhất định hôm nay phải đến Hương Tích tự hỏi thăm các vị Hòa Thượng cho
biết sự tình thế nào? Tiếp đón quan Sát Chánh, các ngài kể lại việc mười
tám vị ăn mày xin ngủ nhờ trong Chùa rồi bỗng nhiên không nói lời nào
lại biến dạng đi mất. Thế rồi ba vị tăng đi thu thập mền để trả lại cho
quan. Lạ lung thay! Các ngài nhìn thấy trên 18 tấm cửa làm giường hiện
rõ lên hình ảnh của 18 vị A La Hán sống động như thật. Ba vị tăng và
nhóm người của Quan Sát chánh cả kinh.
Quan Sát Chánh quyết không lấy lại mền và cũng bố thí luôn cả xe bò rồi
ngay ngày hôm ấy ngài đề nghị cùng các Hòa thượng cho phép ông xuất tiền
ra mượn thợ đúc thành 18 vị A La hán để thờ trong Chùa. Đồng thời quan
cũng cho xây lại điện đường làm bảo tháp và sửa sang tất cả vườn tược
già lam lại thật trang nghiêm. Từ đó Hương tích tự trở nên một thắng
cảnh nổi tiếng và người ta đặt lại tên là La Hán Tự. Thiện nam tín nữ từ
từ lại kéo nhau về chùa lễ Phật cúng dường hậu hỉnh không thua gì Xuất
thủy tự năm xưa. Dù bây giờ Hương tích Tự trở nên huy hoàng lộng lẫy
nhưng tâm các vị Hòa thượng tu hành ở đó vẫn thanh tịnh.
Ba năm sau cũng vào mùa đông giá rét, tuyết lớn bay tấp nập. Bỗng có một
vị Hòa thượng đến La Hán Tự xưng tên và muốn gặp Hòa thượng trụ trì.
Người này chính là Hòa thượng trụ trì cũ của Xuất thủy Tự năm xưa. Nghe
sự tích của La Hán tự vị trụ trì Xuất thủy tự thở dài một tiếng mãi hồi
lâu mới cất lời: “năm xưa Hương tích tự của quý thầy cùng với Xuất thủy
tự của chúng tôi tuy gần trong gang tấc, tôi lại chưa hề bước chân qua,
chỉ nghe đồ đệ nói hoài cười nhạo Hương tích tự hư hoại. Tôi cũng chỉ
cười, thực tại có ý hý hửng mừng thầm. Lúc đó Xuất thủy tự chỉ nhổ một
sợi lông cũng có thể giúp nhiều cho Hương tích tự, mà lão nạp tôi lại
không hề có một chút ý này. Xuất thủy tự ngày một giàu có thì tâm Phật
của tăng chúng ngày một tiêu ma.
Cuối cùng chỉ còn có tâm tiền, mất sạch tâm Phật. Mỗi ngày đốt hương
lễ Phật tụng niệm kinh điển cho đến khóa sớm khóa chiều, trong cốt tủy
cũng đều muốn lừa gạt tín chúng, cầu lấy tiền tài.
Nhìn thấy mười tám vị ăn mày, liền ghét bỏ họ bần cùng dơ dáy, không
một mảy may có lòng lân mẫn hướng thiện. Nhìn không ra mười tám người áo
đơn trời lạnh, lại gặp đêm tối, nếu đuổi họ đi sống chết thế nào? Tôi
mấy năm nay hành cước bên ngoài, ăn gió nằm sương, vào khắp danh sơn
chùa lớn. Khắp nơi nghe nói có La Hán tự nổi danh thiên hạ, tôi lại
chẳng tin. Lão nạp này ở Cam Châu mấy mươi năm, chưa hề nghe có La Hán
tự. Hôm nay trở về Cam Châu, muốn coi cho biết đầu đuôi thế nào? Mới hay
La Hán tự chính là Hương tích tự năm xưa. Lão tăng vạn dậm hành cước,
lại chẳng biết Phật sống ngay trước mặt. Đến nay nghĩ lại thật là hổ
thẹn muôn bề”.
Hòa thượng trụ trì La hán tự nói: “Lão tăng đâu dám nhận hai chữ Phật
sống. Một đời xuất gia chỉ là muốn rửa sạch ba chữ tham sân si mà thôi.
Ít đi một chút ngã chấp, trừ đi tướng ngã nhân, tu được tâm địa một mảnh
trời xanh, muôn dặm không mây. Chỉ thế mà thôi, thực tại khó theo kịp
bóng dáng đại đức của tiền bối”. Hòa thượng nguyên trụ trì Xuất thủy tự
nói: “Tôi đến La Hán tự đã im lặng xem xét nhiều ngày. Vì khí tượng ngày
nay của La Hán Tự rất khác xưa. Lão Phật sống vẫn ở chiếc phòng cũ này
ngày ngày đi canh tác, so với lão nạp năm xưa hào hoa thật là như trời
với đất. Hạt rừng không lương thực, trời đất mênh mông. Bất kể bề ngoài
giàu nghèo, trong lòng lão Phật sống cũng không lương thực. Hồi đó lão
tăng đã để ngoại duyên nắm chặt hết nội duyên, mất hết bổn tâm, để tâm
kim tiền đè chết tâm Phật, do đó mới kinh động chư vị A La Hán. Tôi nghĩ
rằng các vị A La Hán giáng lâm đến Xuất thủy tự cũng là vì muốn cứu vớt
chúng tôi nhảy ra khỏi hầm lửa, lại không dè chúng tôi thuốc lại chẳng
cứu được như thế, ngược lại bị tăng nhân chùa tôi ác ý đuổi xô. Lúc đó
nếu có được người nói với tôi, tôi cũng chẳng cho là đúng. Mỗi ngày tín
chúng vạn người vào ra, mười tám người có đáng chi? Đợi đến lúc có chữ
trên tường vôi ngoài cửa chùi chẳng đi, tôi mới suy nghĩ ra có chỗ chẳng
ổn. Như nay Xuất thủy tự điêu tàn chỉ còn có một thẩy hương đăng. Bất
luận làm cái gì, không chấp trước mới tốt. Chỉ một câu này của lão Phật
sống đã là đến thẳng tâm Phật.- Lão trụ trì nói đùa! – Không phải.- Lão
Phật sống một tâm lúc ở Hương tích tự và một tâm ở La Hán tự bây giờ,
không biến đổi mảy may, trong sáng thanh tịnh, một hạt bụi chẳng nhiễm,
đây há là việc mọi người dễ dàng làm được sao? Tôi trở về lần này, cũng
chỉ vì muốn được ở La hán tự, làm một vị tăng tầm thường, theo hầu bên
cạnh lão Phật sống, tu hành lại từ đầu, nếu ngày nào khai ngộ được chút
ít, cũng chẳng phải là uổng một phen xuất gia, một đời làm tăng vậy”.
Lão trụ trì Xuất thủy tự lưu lại chùa, trụ ở phòng cũ bên cạnh lão
Hòa thượng trụ trì La Hán tự. Lão Hòa thượng trụ trì đêm nằm không ngủ,
Điều này khiến trụ trì Xuất thủy tự rất là khâm phục. Thường ngày, La
Hán tự để lại hai ba tăng tiếp xúc với thiện nam tín nữ, mở trai phạn
lớn tiếp tế người nghèo khổ. Còn các tăng nhân khác thì tĩnh tâm trong
thiền phòng, trang nghiêm tu trì. Nguyên trụ trì Xuất thủy tự trải qua
một phen khổ nhọc kiên định được tâm Phật, dũng mãnh tinh tấn. Cuối cùng
đã cùng với Hòa thượng trị trì La Hán tự song song thành chánh quả.
Chẳng qua, đây là chuyện thức ngộ bổn tâm.
Câu chuyện trên đây đã cho chúng ta một bài học về sự tu hành. Và
cũng để cảnh cáo các bậc tăng sỹ hãy nên coi chừng danh hư lợi dưỡng.
Chùa to tượng lớn không hẳn là phản ảnh được công đức tu hành. Chẳng qua
là do một phước duyên nào đó thôi. Nếu không khéo tu trì thì một ngày
kia luật vô thường cũng sẽ đào thải tất cả. Vì lẽ chúng ta đang sống
trong một bối cảnh của cuộc sống hư ảo, phù phiếm giả tạm
( trích một đoạn nhỏ trong quyển sách ” Giọt nước mắt của một thầy tu” sắp xuất bản nay mai)
.
trang 2
Trang 3
Thích Trí Như
Túy Phượng chuyển bài
(Hình ảnh : Bộ ảnh 18 vị La Hán Chùa Tây Phương)