Từ những giai thoại cũng như những tư liệu khả tín về cuộc đời của ngài,
đã chuyển tải nhiều nội dung tưởng chừng nghịch lý. Ở đây, dựa trên tư
liệu kinh điển từ Hán tạng cho đến Nikāya, chúng tôi cố gắng thuyết minh
sự hợp lý từ những điều nghịch lý, cũng như chỉ ra tính tất yếu từ cuộc
đời của ngài, đó là tiến trình giác ngộ.
Việc lạm bàn năng lực chứng ngộ của một bậc cao tăng của một kẻ chưa
vượt bờ, cũng khiên cưỡng như phương cách cố gắng mô tả mặt trời bằng
ánh sáng lúc hừng đông. Do vậy, bằng sự cẩn trọng và cân nhắc, chúng tôi
sẽ tiếp cận tiến trình ngộ đạo của ngài Huệ Năng xoay quanh ba sự kiện:
Giữa phố nghe kinh; Nửa đêm thọ pháp và Những dấu hiệu của bậc Thánh.
Giữa phố nghe kinh
Theo kinh Pháp bảo đàn, khi còn tại gia, ngài Huệ Năng làm nghề đốn củi,
kính phụng mẹ già.
Lúc bấy giờ, có khách mua củi và yêu cầu gánh đến
tận nhà, khách nhận củi trao tiền, Huệ Năng liền rời đi, khi ra khỏi cửa
liền thấy một người đang tụng kinh, vừa nghe lời kinh, tâm Huệ Năng
liền khai ngộ1.
Sự kiện vừa nghe một câu kinh liền chợt khai ngộ của ngài Huệ Năng không
phải là trường hợp đầu tiên trong lịch sử kinh điển Phật giáo. Theo tác
phẩm
Cullavagga, khi lần đầu tiên nghe tôn hiệu Đức Phật, trưởng giả
Cấp-cô-độc
(Anāthapiṇḍika) đã chấn động tâm tư nên đã hỏi lại ba lần, là
nhân duyên sơ khởi để trưởng giả quy kính Đức Phật và phát nguyện hộ
trì Tam bảo sau đó2. Tương tự, ngài Xá-lợi-phất
(Sārīputta) khi vừa hội
kiến Tỳ-kheo Assaji và được nghe một bài kệ ngắn, đã rúng động tâm can,
khai mở pháp nhãn
(dhammacakkhuṃ udapādi), nên đã tìm Phật và phát
nguyện xuất gia
3.
Tham chiếu kinh điển cho thấy, trường hợp khi vừa nghe kinh, tâm liền
khai ngộ của ngài Huệ Năng, là dấu hiệu cho thấy ngài Huệ Năng đã thành
tựu phẩm vị
Chuyển tánh.
Bậc
Chuyển tánh, có khi được dịch là
Chuyển tộc, Chuyển biến, cũng có
khi được gọi là bậc Chân nhân
(Sappurisa). Theo kinh Tăng chi bộ
4, bậc
Chuyển tánh là một trong chín hạng người (A.iv,373), hoặc mười hạng
người (A.v,23)
5 ở đời đáng được cung kính, cúng dường và tôn trọng. Kinh
Tăng nhất A-hàm ở Hán tạng cũng mang ý nghĩa tương tự nhưng với tên gọi
là
Chủng tánh nhân6. Nguyên tác ở kinh tạng Pāli ghi là
Gotrabhū. Đây
là giai vị chuyển từ phàm sang Thánh, chuẩn bị bước vào Thánh đạo, phẩm
vị này tuy thấp nhưng sở hữu một trí tuệ thù thắng và có phước quả.
Về năng lực trí tuệ, ở phẩm vị
Chuyển tánh có một trí tuệ hơn người. Tác
phẩm
Phân tích đạo (Paṭisambhidāmagga), đã nêu ra những phẩm tính cụ
thể của tuệ chuyển tánh
(Gotrabhū-ñāṇa), là tuệ thứ 13 trong 16 loại
thiền tuệ minh sát. Tuệ chuyển tánh
(Gotrabhū-ñāṇa) có công năng đưa một
chúng sanh từ địa vị phàm phu
(Putthujjana) sang bậc Thánh cao quý
(
Ariyāpuggala).
Căn cứ theo kinh
Tương ưng (S.iii,225), Đức Phật dạy rằng:
Này các
Tỳ-kheo, ai có lòng tin, có tín giải đối với những pháp này; vị ấy được
gọi là Tùy tín hành (Dhammānusārī), đã nhập Chánh tánh (Okkanto
sammattaniyāmaṃ), đã nhập Chân nhân địa (Sappurisabhūmiṃ okkanto), đã
vượt phàm phu địa (Vītivatto puthujjanabhūmiṃ). Vị ấy không có thể làm
những hành động gì, do làm hành động ấy phải sanh vào địa ngục, bàng
sanh, ngạ quỷ; một vị không có thể mệnh chung mà không chứng quả Dự
lưu7. Ở đây, quá trình thành tựu Chân nhân địa (Sappurisabhūmiṃ) theo
kinh Tương ưng cũng tương đồng với Chủng tánh địa (種性地) như kinh
Tỳ-ni-mẫu ở Hán tạng đã chỉ ra
8.
Với ngài Huệ Năng, từ một lần chợt nghe kinh Kim cang trong phố, tâm
ngài rơi vào trạng thái
ngưng thần (凝神)9, mọi vọng tưởng khi ấy hoàn
toàn dứt bặt10, khoảnh khắc đó đã dẫn đến sự khai mở tuệ giác của một
bậc
Chân nhân (Sappurisa). Vì lẽ, với một người quê mùa và không biết
chữ, nhưng đoạn đối thoại khi sơ ngộ giữa ngài và Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, đã
cho thấy mặt trời trí tuệ đã thực sự hiện hữu trong tâm của ngài Huệ
Năng:
Ngũ tổ hỏi: Ông từ phương nào đến, và muốn cầu thỉnh điều gì? Huệ Năng
đáp: “Đệ tử là dân Tân Châu ở Lãnh Nam, từ xa về lễ Tổ, chỉ cầu làm Phật
chứ không mong gì khác”. Tổ nói: Ngươi dân Lãnh Nam, ở chốn quê mùa thì
làm sao kham thành Phật? Huệ Năng đáp: Người tuy có Bắc-Nam, nhưng Phật
tánh vốn không phân Nam-Bắc, thân quê mùa này cùng với thân Hòa thượng
có gì sai khác? Và Phật tánh giữa con và Hòa thượng có gì sai biệt
nhau?11.
Về phương diện phước quả, theo kinh Tăng chi bộ đã dẫn ở trên, một khi
thành tựu phẩm vị
Chuyển tánh (Gotrabhū), cũng như đã vượt phàm phu địa
(Vītivatto puthujjanabhūmiṃ), thì người đó luôn được cung kính, cúng
dường và tôn trọng. Chính vì vậy, từ khi chợt ngộ do được nghe kinh Kim
cang, ngài Huệ Năng luôn được nhiều người quan tâm hỗ trợ, như việc có
người vô danh tặng cho mười lạng bạc để chu cấp đời sống cho mẹ già,
cũng như hỗ trợ các chi phí thường nhật của đời sống tại gia12, để ngài
an tâm đến Hoàng Mai cầu pháp với Ngũ tổ, là những sự việc hoàn toàn có
cơ sở từ kinh điển.
Như vậy, kể từ thời điểm chợt ngộ khi nghe một câu kinh, tuy chưa đạt
được quả vị nào trong tứ quả Thanh văn, nhưng ngài Huệ Năng đã lìa khỏi
địa vị phàm phu và bước lên Chân nhân phẩm vị
(Sappurisabhūmiṃ).
Nửa đêm thọ pháp
Khi được theo chúng tu học dưới sự hướng dẫn của ngài Hoằng Nhẫn tại
Hoàng Mai, ngài Huệ Năng phải trải qua tám tháng chấp lao phục dịch ở
khu vực nhà bếp. Một lần Ngũ tổ chợt ghé qua nơi ấy, bằng phong cách
thiền ngữ đặc thù, ngài hỏi:
Gạo đã trắng chưa?13. Huệ Năng đáp:
Gạo
trắng đã lâu, chỉ còn việc giần, sàng14. Từ câu trả lời này, ngài Hoằng
Nhẫn biết rằng tâm cơ của ngài Huệ Năng đã đến thời khai ngộ, nên đã dặn
riêng đến thất của ngài vào canh ba đêm ấy.
Giữa bốn bề tĩnh mịch đêm khuya, ngài Hoằng Nhẫn đã biệt truyền kinh
Kim
cang cho ngài Huệ Năng, khi nghe đến câu:
Không nên trú tâm, để tâm
dính mắc, bất cứ pháp nào15, ngài Huệ Năng liền đại ngộ (大悟). Ngay khi
đó, ngài Huệ Năng liền trình với Ngũ tổ sở chứng của mình qua bài kệ:
Đâu ngờ tự tánh vốn
tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn không
sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không
dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh
muôn pháp!
(HT.Thích Thanh Từ
dịch).
Sau đó, Ngũ tổ đã ấn chứng và truyền y bát cho ngài Huệ Năng làm Tổ thứ
sáu.
Như vậy, kể từ thời điểm này ngài Huệ Năng đã chính thức đảm nhận vai
trò Tổ vị của thiền lâm Đông Độ. Ở đây, điểm cần làm sáng tỏ là quả vị
giác ngộ của ngài Huệ Năng trong thời điểm ấy ở phẩm vị nào?
Trước hết, người lãnh ngộ được chân lý, Hán tạng gọi là bậc
kiến pháp
(見法, diṭṭhadhamma) hoặc
khai pháp nhãn (開法眼, dhammacakkhuṃ udapādi).
Theo kinh Xuất diệu, khi được pháp nhãn, thì chứng quả Tu-đà-hoàn16 tức
quả vị Dự lưu.
Theo luận Du-già-sư-địa, có mười điều lợi ích khi được pháp nhãn
17. Luận
ghi:
Lại nữa, xa trần lìa cấu, ở trong các pháp, lúc được pháp nhãn, nên biết
tức được mười thứ thắng lợi. Đó là:
1- Nơi bốn Thánh đế đã khéo thấy rõ, nên gọi là thấy pháp.
2- Theo đấy, đạt được một loại quả Sa-môn, nên gọi là đắc pháp.
3- Đối với chỗ đã chứng đắc, có thể tự nhận biết rõ: Ta nay đã dứt hết
nghiệp nơi ba nẻo ác. Ta đã chứng đắc quả Dự lưu cho đến nói rộng. Do
như thế nên gọi là biết pháp.
4- Được bốn chứng tịnh, đối với Phật Pháp Tăng nhận biết đúng như thật,
nên gọi là kiên pháp khắp.
5- Đối với chỗ tự chứng đắc không lầm lạc.
6- Đối với chỗ chứng đắc của kẻ khác không nghi.
7- Lúc tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Thánh đế, không dựa vào
duyên khác.
8- Không quán xét về hình tướng cùng ngôn thuyết của kẻ khác. Ở trong
Chánh pháp Tỳ-nại-da này, hết thảy luận khác đều không thể chuyển.
9- Ký biệt về tất cả chỗ chứng đắc, giải thoát đều là vô sở úy.
10- Do hai nhân duyên nên tùy nhập Thánh giáo. Tức là thế tục chân chánh
cùng đệ nhất nghĩa.
(Cư sĩ Nguyên Huệ dịch)
18.
Bên cạnh đó, kinh
Tăng chi bộ (A.iii,441) cũng nêu ra sáu điều lợi ích
khi chứng được quả vị Dự lưu. Kinh ghi:
1. Có sáu lợi ích, này các Tỳ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu. Thế nào là
sáu?
2. Sự quyết định đối với diệu pháp không có bị thối đọa; không có bị đau
khổ; làm các việc bị sanh tử hạn chế; thành tựu trí tuệ; không cùng
chia sẻ với các dị sanh; nguyên nhân và các pháp do nhân sanh được khéo
thấy
19.
Như vậy, theo luận Du-già-sư-địa, kể từ khi đạt được quả vị Dự lưu thì
vị ấy có năng lực thấy rõ bốn Thánh đế và thuyết pháp tương ưng với
Thánh đế. Khảo sát bài kệ chứng ngộ của ngài Huệ Năng chứa đựng nhiều
chất liệu phù hợp với Kinh tạng.
Trong bài kệ, khái niệm cơ bản được đề cập chính là yếu tố tự tánh.
Theo kinh Lăng-già-a-bạt-đa-la-bảo, quyển hai, thì tự tánh là một cách
biểu đạt khác của Niết-bàn
20. Khi đối chứng ba mươi từ đồng nghĩa về
Niết-bàn trong kinh Tương ưng bộ (S.iv,360)
21, thì bài kệ này có nhiều
điểm tương đồng.
Đơn cử, khi nói tự tánh vốn tự thanh tịnh, tức đề cập đến phương diện
Thanh tịnh (Visuddhi) của Niết-bàn. Khi nói: tự tánh vốn không sanh
diệt, tức là đề cập đến phương diện Bất tử (Amatam) của Niết-bàn. Khi
nói: tự tánh vốn tự đầy đủ, tức đề cập đến sự Đầy đủ thái bình (Khemam)
của Niết-bàn. Khi nói: Khi nói: tự tánh vốn không dao động, tức là đè
cập đến yếu tố Thường hằng (Dhuvam) của Niết-bàn. Khi nói: tự tánh hay
sanh muôn pháp, tức là đề cập đến yếu tố Chân lý (Saccam) của Niết-bàn.
Chân lý của Niết-bàn cũng chính là không tính. Theo Trung luận: nhờ có
nghĩa không này mà các pháp được thành tựu
22.
(Còn tiếp)
Chúc Phú
_____________
(1) 大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 時, 有一客買柴, 使令送至客店; 客收去,
惠能得錢, 却出門外, 見一客誦經. 惠能一聞經語, 心即開悟.
(2) Cullavagga, chương Sàng tọa, đoạn 241, Câu chuyện gia chủ
Anāthapiṇḍika: Nghe danh Đức Phật, Tỳ-kheo Indacanda dịch.
(3) Mahāvagga, chương trọng yếu, đoạn 64, Câu chuyện về Sārīputta và
Moggallānam Câu chuyện về Trưởng lão Assaji, Tỳ-kheo Indacanda dịch.
(4) Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo,
2015, tr.454.
(5) Kđd, tr.545.
(6)大正藏第 02 冊 No. 0125 增壹阿含經, 卷第四十,九眾生居品,七.
(7) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo,
2013, tr.65.
(8)大正藏第 24 冊 No. 1463 毘尼母經, 卷第一. Nguyên
văn:云何名種性地?有人在佛邊聽法,身心不懈念念成就,因此心故豁然自悟得須陀洹.
(9) 大正藏第 50 冊 No. 2061 宋高僧傳, 卷第八, 唐韶州今南華寺慧能傳.
(10)大正藏第 04 冊 No. 0211 法句譬喻經,卷第二,喻華香品. Nguyên văn: 凝神斷想自致得道.
(11)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經.
(12)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 乃蒙一客,取銀十兩與惠能,令充老母衣糧.
(13)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 米熟也未.
(14)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 米熟久矣,猶欠篩在.
(15)大正藏第 48 冊 No. 2008 六祖大師法寶壇經. Nguyên văn: 應無所住而生其心.
(16)大正藏第 04 冊 No. 0212 出曜經, 卷第二. Nguyên văn: 得法眼淨成須陀洹.
(17)大正藏第 30 冊 No. 1579 瑜伽師地論, 卷第八十六. Nguyên văn: 於四聖諦已善見故.說名見法.
(18) Luận-du-già-sư-địa, tập 4, Nguyên Huệ dịch, Nxb Hồng Đức, 2013,
tr.216-217.
(19) Kinh Tăng chi bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo,
2015, tr.163.
(20)大正藏第 16 冊 No. 0670 楞伽阿跋多羅寶經, 卷第二. Nguyên văn: 佛告大慧:我說如來藏,不同外道所說之我.
大慧!有時說空, 無相, 無願, 如, 實際, 法性, 法身, 涅槃, 離自性, 不生不滅, 本來寂靜, 自性涅槃, 如是等句, 說如來藏已.
(21) Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, Nxb Tôn Giáo,
2013, tr. 406-408.
(22) 大正藏第 30 冊 No. 1564 中論, 卷第四. Nguyên văn: 以有空義故,一切法得成.