Qua
ngày hôm sau chúng tôi đến thăm viếng vườn Lâm Tỳ Ni cách chùa Hàn Quốc khoảng
5 cây số.
Lâm
Tỳ Ni (Lumbini) nằm trên một ngọn đồi thấp dưới chân dãy Hy Mã Lạp Sơn, cách
kinh thành Ca Tỳ La Vệ xưa (nay là Kapilavastu) khoảng 25 cây số về hướng Đông,
cách biên giới Ấn - Nepal 36 cây số và cách thủ đô Nepal Kathmandu 320 cây số. Nơi
đây đã có một thời gian lâu dài bị lãng quên. Mãi đến ngày 1 tháng 12 năm 1896, tức là
khoảng 2500 năm sau, hai nhà khảo cổ người Đức Alois A. Fuhrer và Khadga
Samsher [1] mới khai quật
và phát hiện tại nơi đây một trụ đá có ghi khắc sắc lệnh của vua A Dục (Asoka),
mới biết đây là Thánh địa, nơi đản sanh Đức Thích Tôn. Trụ đá được các nhà khảo
cổ dựng lại ngay trên nền nguyên thuỷ, và công tác khai quật, trùng tu và bảo trì
Lâm Tỳ Ni bắt đầu từ đấy.
Khi
chúng tôi tới đây quan sát thì thấy cột trụ đá có độ cao khoảng từ 5 đến 6 mét,
đường kính khoảng nửa mét, được bao quanh bởi hàng rào sắt. Hiện vòng rào sắt cũng bị thời gian làm rỉ sét gần
hết. Bên hàng rào, các Phật tử theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã khoác
lên những lá cờ phướn nhiều màu rực rỡ, làm tôn thêm vẻ bình dị của chiếc cột trụ
đá nhiều ngàn năm tuổi. Trên đầu cột trụ đá không có hình gì cả. Trên thân trụ
có khắc 5 hàng cổ ngữ Brahmi và bên cạnh, phía bên dưới có tấm bia ghi bằng ba
ngôn ngữ: Brahmi, Anh và Pali hay Ấn ngữ cho du khách xem: (xem hình 06, 07 vả 08)
Tiếng Brahmi:
Devannapiyena
piyadasina lajina-visativasabhisitena.
Atana-agacha mahiyite. Hida Budhe-jate sakyamuniti.
Silavigadabhicha kalapita silathabhe-cha usapapite.
Hida Bhagavam jateti Lumbinigame ubalike kate,
Athabhagiye ca.
Tiếng Anh: “King
Piyadasi (Ashoka), beloved of devas, in the 20 year of the coronation, himself
made a royal visit, Buddha Sakyamuni having been born here, a stone railing was
built and a stone pillar erected to the Bhagavan having been born here, Lumbini
village was taxed reduced and entitled to the eight part (only)”. [2]
Cột
trụ đá này chỉ rõ cho chúng ta biết chắc chắn chỗ này là nơi Ðức Phật Thích Ca
Mâu Ni đản sanh. Đây là một phát hiện di tích có giá trị lịch sử sớm nhất còn
lại đến ngày nay và đoạn văn khắc trên trụ đá có thể được xem là “bản khai sanh” của Thái tử Tất Đạt Đa,
là một bằng chứng “sống” về sự kiện nhân vật có thực của lịch sử.
Bên
cạnh cột trụ đá lịch sử này là đền thờ Hoàng hậu Maya
(Mahadevi temple). (hình 9) Ngôi đền được xây
dựng theo lối kiến trúc khá đặc biệt, không giống như bất cứ ngôi đền nào
chúng ta từng thấy. Gọi là đền nhưng thực ra chỉ là bốn bức tường sơn
mầu trắng bao quanh khu vực khảo cổ, rất đơn giản, cốt để che mưa, che nắng bảo vệ cho khu vực khai quật tránh
bị hư hoại theo thời gian. Bên trong đền là những nền gạch xưa cũ đã được khai
quật, những vết tích cổ xưa như phiến đá có in dấu của một bàn chân nhỏ do vua
A Dục khắc in, được xác định là vị trí lúc Đức Phật đản sinh, được
bảo tồn
trong lồng kiếng chắn đạn (hình 10). Trên bờ tường gạch kế bên, cách mặt
đất khoảng 3m là
một bức phù điêu bằng đá mô tả sự ra đời của thái tử Tất Đạt Đa qua hình
ảnh
hoàng hậu Maya đang đứng với lấy một nhánh cây Vô ưu và đang hạ sinh
thái tử. Mặc dầu bức phù điêu này không được các nhà khảo cổ xem là di
tích lịch sử, nhưng nó có giá trị sử học theo cách nhìn của các nhà
nghiên cứu sử Ấn Độ và Nepal. Họ cho rằng bức phù điêu này được thực
hiện bởi vua Ripu
Malla, một vị vua theo đạo Hindu, của Nepal vào đầu thế kỷ XIV. Vua Ripu
Malla tin rằng hoàng hậu Maya là một hoá thân của nữ thần Hindu. (hình
11)
Về hướng
nam của ngôi đền, cách không xa cột trụ đá, là một hồ tắm. Theo “Phật quốc truyện” của Ngài Pháp Hiển đến
Ấn độ khoảng thế kỷ thứ V SCN chép như sau: “Phu nhân nghỉ chân tại vườn Lâm Tỳ Ni, tắm trong một hồ nước trong xanh
và mát. Sau khi tắm gội xong bà đi dạo trong vườn khoảng hai mươi bước chân,
tay vin vào nhánh cây Vô ưu quay về hướng đông và hạ sanh Thái tử.” Cạnh hồ tắm là
cây bồ đề mà trước đây là cây Vô ưu. (Hình 14 và 15)
Bên
cạnh cây Bồ đề, hồ nước và đền thờ hoàng hậu Maya là một dãy nền móng gạch đỏ
nằm trong khuôn viên hình chữ nhật, đó là di tích Tu viện Lâm Tỳ Ni. Di tích
được xác nhận có bề dày lịch sử từ khoảng thế kỷ thứ 3 hoặc thế kỷ thứ 4 trước
tây lịch. (Hình 16)
Gần
đây nhất, vào năm 1996, các nhà khảo cổ bất ngờ khi khai quật, tìm thấy dưới
nền đền thờ hoàng hậu Maya một phiến đá có in dấu một bàn chân nhỏ,
mà vua A
Dục vào năm 249 TCN đã
dùng để đánh dấu vị trí nơi sinh của đức Phật. Phiến đá hiện nay được
giữ
nguyên trạng trong tình trạng khai quật có kích thước 70x40x10 cm và để
trong lồng kiếng chống đạn (bulletproof glass) đặt trong đền thờ hoàng
hậu Maya, giữa những nền móng khai quật
với dòng chú thích: “Maker Stone: The
Exact Birth Place of Buddha”. Chứng vật
cuối cùng này đã khẳng định rằng đền thờ hoàng hậu Maya
chính xác là đền thờ kỷ niệm nơi Đức Phật đã sinh ra và vùng đất này chính là
Lâm Tỳ Ni ngày xưa. (Hình 10).
Sau
khi được các nhà khảo cổ xác nhận các chứng tích lịch sử như cột trụ đá và phiến
đá của vua A Dục đào dược dưới nền đền thờ Hoàng hậu Mya, năm 1997, cơ quan UNESCO
của Liên Hiệp Quốc đã chính thức công nhận Lâm Tỳ Ni là di sản văn hóa của nhân
loại và tài trợ chi phí trùng tu và bảo trì khu di tích lịch sử quan trọng này.
Bắt đầu từ đây, phương Tây mới tin rằng Đức Phật là một nhân vật lịch sử có
thật. Trước đó họ cho rằng nhân vật Cồ Đàm Gautama chỉ là huyền thoại và giáo
pháp của ngài chỉ là tổng hợp các tư tưởng của nhiều nhân vật khác nhau trong lịch
sử văn hóa Ấn Độ.
Được
khảo cổ khai quật phát hiện từ cuối năm 1896, đến nay khu vực Lâm Tỳ Ni
đã qua nhiều lần qui hoạch, xây dựng và bảo vệ của chính quyền Nepal,
cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc và các tổ chức Phật giáo quốc tế. Lâm
Tỳ Ni ngày nay rất rộng, nhiều quốc gia Á Châu đã xây chùa ở đây, phô
trương nét văn hóa Phật giáo nước mình, trong đó có chùa Việt Nam, Tây Tạng,
Miến Điện, Butan, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Hoa.
*****
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều
nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của
Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây. Họ gởi lại Lâm Tỳ Ni những lời cầu
nguyện thiết tha chân thành của mình, để bày tỏ lòng ngưỡng mộ và tri ân của họ
đối với Ngài. Đoàn Phật tử Việt Nam
chúng tôi từ khắp nơi trên thế giới về đây tụ hội dưới tàng cây Bồ đề làm lễ
cầu nguyện tưởng nhớ công ơn sâu dầy của Ngài.
Riêng tôi, chưa bao giờ có
được những xúc cảm dâng lên từ đáy lòng như ở đây. Tôi đã về đây tìm
dấu chân Ngài để nghe những âm thanh hòa reo, ca ngợi, tán thán một vĩ
nhân xuất hiện nơi đời. Lâm Tỳ Ni chính là đây. Từ nơi xa xôi cách nửa
vòng quả
địa cầu, tôi đã đến đây để thấy, thấy để tin chính nơi đây Ngài đã đản
sinh, Ngài
đã vạch ra một con đường thực hành từ bi và trí tuệ cho chúng sinh, giúp
cho những ai có duyên, có thể nương
theo đó, vượt thoát mọi khổ đau, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Ngồi
dưới
gốc cây Bồ đề mà trước kia là cây Vô ưu, tôi tin mãnh liệt rằng Ngài đã
được hạ sinh tại nơi đây như một con người bình thường, không có gì là
thần bí
như huyền thoại trong một số kinh sách từng mô tả. Điều này cũng có thể
hiểu rằng việc sinh ra
bình thường nhằm bác bỏ quan điểm truyền thống sai lầm đã ăn sâu trong
tín
ngưỡng người Ấn Độ bấy giờ là mọi chúng sinh đều do Phạm thiên, thần chủ
của Bà
La Môn sinh ra.
Đạo Phật là đạo giác ngộ, là đạo đến để thấy!
thấy để tin, tin để tu hành! Tu hành để giác ngộ giải thoát. Phật đản sanh hôm
nay chính là Phật đản sinh trong lòng khi chúng ta cất tiếng kinh cầu, sống
theo lời Phật dạy, từng bước nở đóa hoa sen, từ miền đất tâm an lạc.
Tâm Diệu
(Lâm Tỳ Ni 03-03-2011 PL 2555)
01. Lâm Tỳ Ni là một trong bốn động tâm quan trọng của Phật Giáo
Lumbini: Ngọn lửa bất diệt biểu tượng cho hòa bình được thắp cháy từ năm 1986
02 Bản đồ hướng dẫn khu Thánh địa Lâm Tỳ Ni
03. Cổng vào khuôn viên Lâm Tỳ Ni
04. Đường dẫn vào khuôn viên Lâm Tỳ Ni (phải đi bộ hoặc đi xe thồ có trả tiền)
05. Cổng phía trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni (Đền thờ Hoàng hậu Maya sơn mầu trắng)
06. Cột trụ đá di tích lịch sử Asoka (Ashoka's Pillar) [Ảnh: Tevaprapas]
07. Trên thân trụ
có khắc 5 hàng cổ ngữ Brahmi
08. Bên cạnh, phía bên dưới có tấm bia ghi bằng ba
ngôn ngữ: Brahmi, Anh và Pali hay Ấn ngữ cho du khách xem
09. Đền thờ Hoàng hậu Maya và hồ nước thiêng
Một nhà sư tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ đề nhìn hướng hồ thiêng và đền thờ Hoàng hậu Maya
10. Phiến đá có in dấu một bàn chân nhỏ, mà vua A
Dục vào năm 249 TCN đã
dùng để đánh dấu vị trí nơi sinh của đức Phật
11. bức phù điêu bằng đá mô tả sự ra đời của thái tử Tất Đạt Đa qua hình ảnh
hoàng hậu Maya đang đứng với lấy một nhánh cây Vô ưu và đang hạ sinh
thái tử. Mặc dầu bức phù điêu này không được các nhà khảo cổ xem là di
tích lịch sử, nhưng nó có giá trị sử học theo cách nhìn của các nhà
nghiên cứu sử Ấn Độ và Nepal. Họ cho rằng bức phù điêu này được thực
hiện bởi vua Ripu
Malla, một vị vua theo đạo Hindu, của Nepal vào đầu thế kỷ XIV. Vua Ripu
Malla tin rằng hoàng hậu Maya là một hoá thân của nữ thần Hindu.
12. Bên trong đền là những nền gạch xưa cũ đã được khai
quật
13. Bên trong đền là những nền gạch xưa cũ đã được khai
quật
14. Cạnh hồ tắm là
cây bồ đề mà trước đây là cây Vô ưu
15. Cây Bồ đề (trên nền của cây Vô ưu xưa)
16. Bên
cạnh cây Bồ đề, hồ nước và đền thờ hoàng hậu Maya là một dãy nền móng gạch đỏ
nằm trong khuôn viên hình chữ nhật, đó là di tích Tu viện Lâm Tỳ Ni. Di tích
được xác nhận có bề dày lịch sử từ khoảng thế kỷ thứ 3 hoặc thế kỷ thứ 4 trước
tây lịch.
Chú thích:
[1] Alois A. Fuhrer, Monograph on Buddha Sakyamuni's
birth-place in the Govt. Press, N.W.P. and Oudh, 1897 - Religion - 48
pages (Ebook)..., Volume 26, Part 1
[2] Việt dịch: “Hai mươi lăm năm
sau khi lên ngôi, quốc vương Devànampiya Piyadasi (A Dục) ngự đến đây chiêm bái, vì Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni, bậc hiền nhân của bộ tộc Thích-ca, đã đản sanh tại đây. Nhà
vua ban lệnh khắc một tượng bằng đá và dựng một thạch trụ. Ngài miễn thuế đất ở
làng Lumbini và giảm thuế hoa lợi từ theo lệ thường xuống 1/8”.
(Đức Phật Lịch Sử, bản dịch của Trần
Phương Lan, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997, trang 38 - 39.)
Một
bản Việt dịch khác: “Trẫm lên ngôi vua đã
20 năm là nhờ ân huệ của bậc tiên đế, nay đến đây chiêm bái, bởi vì nơi đây là
thánh tích ghi nhận đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh. Đỉnh trụ có biểu tượng,
thân trụ khắc văn bi đánh dấu nơi Phật đà giáng thế. Nay Trẫm ban ân làng Phật
giáo Lâm-tỳ-ni được miễn thuế.” (HT.
Minh Châu trong ĐVĐP).