Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Sự tích Đức Phật Thích Ca qua tranh vẽ
Diễn đàn Phật Giáo
13/05/2013 08:39 (GMT+7)





2. Hoàng hậu Ma-da (Sirimahāmāyā) nằm mộng thấy một con voi trắng 6 ngà từ núi vàng, núi bạc đến và mang cho bà một cành hoa sen, từ đó bà mang thai.

3. Trên đường về quê mẹ, Hoàng hậu Ma-da ghé qua vườn Lâm-tì-ni và hạ sanh Thái tử ở đó, nhằm vào ngày trăng tròn tháng 4 âm lịch, năm 624 trước Tây lịch. Vừa sanh ra thái tử liền đi 7 bước, dưới mỗi bước đi là 7 đóa sen nâng gót chân Ngài , rồi Thái Tử dừng lại tuyên bố rằng: “Ta là bậc chí tôn cao quý nhất trên đời”.

4. Đạo sĩ A-tư-đà nghe tin Thái tử ra đời nên xuống núi viếng thăm. Diện kiến thánh nhan của thái tử, đạo sĩ vừa vui mừng rồi lại khóc than. Vui vì bậc Đại Thánh xuất hiện, nhưng khóc vì bản thân đạo sĩ đã quá già không được nghe chánh pháp của bậc Đại Thánh

5. Tại buổi lễ Hạ điền, trong lúc mọi người mải mê tham dự lễ và vui chơi, Thái Tử an nhiên thiền định dưới gốc một đại thụ. Trước cảnh tượng uy nghiêm ấy, vua cha và mọi người đã đảnh lễ Thái Tử.

6. Lớn lên Thái Tử văn võ toàn tài. Trong cuộc thi võ nghệ của Hoàng Gia, Ngài sử dụng chiếc cung thần mà từ trước đến giờ chưa ai có thể giương nổi và đoạt giải quán quân.

7. Lên 16 tuổi, vâng lệnh phụ vương, Thái tử kết hôn với Công chúa Da-du-đà-la. Đôi vợ chồng sống hạnh phúc 13 năm trong 3 lâu đài lộng lẫy do vua cha xây cho và sanh được một con trai tên là La-hầu-la.

8. Một dịp, Thái Tử và Xa-nặc dạo chơi nơi 4 cửa thành và tận mắt chứng kiến 4 cảnh tượng: người già, người bệnh, người chết và một đạo sĩ tướng mạo đoan nghiêm

9. Vào một đêm khuya, sau buổi dạ tiệc linh đình của hoàng cung, Thái Tử cảm thấy nhàm chán cuộc sống hưởng thụ và vượt thành xuất gia, bỏ lại vợ con đang chìm sâu trong giấc ngủ.

10. Thái tử cỡi con ngựa Kiền-trắc dẫn theo người hầu cận Xa-nặc vượt dòng sông Anoma trong đêm tối

11. Qua khỏi dòng sông, Thái Tử cởi bỏ hoàng bào, dùng kiếm cắt tóc và bảo Xa-nặc cỡi ngựa về báo lại phụ vương, một thân một mình hướng về Hy-mã-lạp sơn(Hymalaya áh) quyết chí tìm đạo cứu khổ chúng sanh.

12. Sáu năm khổ hạnh rừng già, thân thể chỉ còn da bọc xương mà ý đạo vẫn chưa sáng. Đến khi nghe Trời Đế-thích hát về cách lên dây đàn, Thái Tử tỉnh ngộ ra và từ bỏ con đường khổ hạnh ép xác để thực hành Trung đạo.

13. Mục nữ Sujātā dâng sữa cúng dường, Thái Tử uống xong thấy tinh thần minh mẫn. Ngài ném bát xuống sông Ni-liên-thiền và nguyện rằng: “Nếu ta có thể chứng đắc Phật quả thì khi ta ném cái bát này xuống sông, nó trôi ngược dòng nước”. Nói xong Ngài ném cái bát xuống dòng sông, cái bát nổi lên mặt nước và trôi ngược dòng

14. Ma vương cùng với ma binh vây quanh quấy phá dụ dỗ, nhưng Thái Tử vẫn không nao núng, một lòng an trú trong thiền định. Ma vương cảm phục và cúi đầu đảnh lễ.

15. Vào một ngày trăng tròn tháng 12 Âm lịch, khi sao mai vừa mọc, Thái Tử giác ngộ bốn chân lý: khổ, tập, diệt, đạo (đây là Tứ Diệu Đế nàh,đây cũng là bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật áh)và chứng quả Vô Thượng Bồ đề, thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni

16. Ba nàng công chúa của Ma vương dùng sắc đẹp và những điệu múa lả lơi để quyến rũ đức Phật, nhưng bọn chúng đều thất bại.

17. Hai nhà thương buôn tên Tapussa và Bhalluka gặp Phật và xin cúng dường Ngài một bữa cơm. Tứ Đại Thiên Vương xin cúng dường Ngài bốn bình bát, nhưng Ngài chỉ nhận một bình bát

18. Vì lợi ích cho chư thiên và nhân loại, đức Phật đã nhận lời thỉnh cầu của Phạm Thiên quyết định rời cội Bồ-đề lên đường hóa độ.

19. Trước tiên, Ngài đến Lộc Uyển tìm 5 anh em Kiều Trần Như là những bạn đồng tu khổ hạnh trước kia để chuyển Bánh Xe Pháp và thuyết bài pháp đầu tiên: Tứ Diệu Đế.

20. Yasa được Phật thuyết pháp và sau đó cùng với 54 người bạn xin Phật xuất gia. Cha mẹ và vợ con của Yasa là những người quy y Tam bảo(Tam Bảo là Phật-Pháp-Tăng đó àh ngen) đầu tiên

21. Một đêm Đức Phật đến ngụ trong đền thờ thần lửa của Ba anh em nhà Ca-diếp và dùng thần thông thu phục rồng lửa canh giữ đền. Ba anh em Ca-diếp và 1000 đệ tử đều qui y Ngài. Tất cả sau đó đều đắc quả A-la-hán.

22. Vào ngày rằm tháng sáu, đức Phật giáo giới cho 1.250 vị Thiện lai Tỳ Kheo: “Không làm các điều ác, hãy làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời chư Phật dạy”.

23. Ngày em trai của Ngài là Nan-đà thành hôn, đức Phật đến thọ trai, rồi trao bình bát cho Nan-đà và đứng dậy ra về. Nan-đà ôm bình bát theo Phật về Tinh xá. Về đến nơi, Phật khuyên chàng xuất gia, Nan-đà miễn cưỡng nhận lời, nhưng rất buồn khổ. Đức Phật đã dùng thần thông đưa Nan-đà lên các cõi trời rồi xuống các cảnh giới địa ngục. Nan-đà thấy thế mới nỗ lực tu tập, sau đó chứng đắc quả A La Hán

24. Vua Tịnh Phạn và công chúa Da-du-đà-la gợi ý La-hầu-la xin đức Phật tài sản, nhưng Ngài chỉ cho La-hầu-la xuất gia, nên vua rất buồn khổ. Sau đó vua đề nghị đức Phật không nên nhận người xuất gia khi chưa có sự đồng ý của cha mẹ họ. Đức Phật nhận lời.

25. Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) trong nhiều kiếp đã là kẻ đối nghịch với đức Phật, khi xuất gia ông tiếp tục là kẻ chống phá, luôn âm mưu hại Phật. Nghiệp nhân nặng nề như thế nên ông bị quả báo đất rút vào địa ngục.

26. Di mẫu Kiều Đàm, mẹ kế của đức Phật, tự tay may bộ y dâng lên cúng dường, nhưng đức Phật từ chối và khuyên bà nên cúng dường cho vị tì-kheo nào chưa đủ, như thế phước báu sẽ nhiều hơn

27. Khi vua Tịnh Phạn băng hà, đức Phật trở về kinh thành tự tay châm lửa hỏa táng để nhắc nhở hàng đệ tử về tấm gương hiếu hạnh.

28. Đức Phật dùng thần thông lên cung trời Đao Lợi (Tāvatiṃsa) để thuyết pháp cho thân mẫu.

29. Từ cung trời Đao Lợi trở về, chư Thiên đưa tiễn Ngài rất đông; hàng đệ tử xuất gia và tại gia cũng mừng đón.

30. Chàng Vô Não đang trên đường tìm kiếm sát hại người thứ 1000, khi gặp đức Phậtchàng ra lệnh Ngài dừng lại. Đức Phật nói rằng: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi, nghĩa là đã dừng sự sát hại, còn người thì chưa”. Vô Não giật mình tỉnh ngộ và xin xuất gia, sau đó chàng chứng quả vị A La Hán.

31. Sau 49 năm thuyết pháp độ sanh, năm 544 trước Tây lịch, đức Phật nhập Niết Bàn giữa hai cây Sa-la(hay còn được gọi với tên khác là cây Long Thọ) tại rừng Câu-thi-na (Kuśinagara), thọ 80 tuổi.

32. Vì muốn có xá lợi của Phật, vua các nước đem quân vây thành. Dona khuyên can các vị vua không nên đánh nhau và hãy thực hành giáo huấn của Phật, đồng thời chia xá lợi thành 8 phần bằng nhau cho 8 quốc gia để dựng tháp tôn thờ. Sau này vua A Dục (thế kỷ III trước Tây lịch) đã cho xây 84.000 tháp thờ xá lợi khắp xứ Ấn Độ.

Các tin đã đăng:
Về đầu trang