hỏi đạo. Rất tiếc Ngài không có duyên với vua Lương
nên không thuyết phục được vua vì hai vị quan điểm bất đồng, Vũ Đế quá
thiên về thinh âm sắc tướng, xây cất chùa chiền, in kinh độ tăng, còn Tổ
lại chuyên về Tâm.
Vì thấy không hóa độ được Lương Võ Đế và khó truyền Phật pháp đắc lực
ở phương Nam nên Đức Đạt Ma Tổ Sư vượt sông Dương Tử, đi lên phương
Bắc. Dừng chân tại Thiếu Lâm Tự, ngài ngồi xoay mặt ngó vào vách, tham
thiền chín năm (cửu niên diện bích 九年面壁). Tương truyền Ngài bỏ thế gian
năm 529, để lại rất nhiều huyền thoại, như: Đạt Ma cỡi nhánh lau vượt
sông Dương Tử, Đạt Ma quảy chiếc giày phi hành trên dãy núi Thống Lãnh,
v.v.
II. Bất đồng quan điểm giữa Đạt Ma Tổ Sư và Lương Võ Đế
Chỗ bất đồng quan điểm giữa vua Lương và Tổ được Đức Lục Tổ Huệ Năng
六祖慧能 (638-713) giải thích trong Pháp Bửu Đàn Kinh 法寶壇經, phẩm Quyết Nghi.
Lương Võ Đế hỏi suốt đời nhà vua làm những việc cất chùa, cúng tăng, bố thí, v.v. như vậy có công đức chi không.
Tổ sư nói: Thật không có công đức.
Theo tôn ý của Tổ, vua Lương Võ Đế thực hành hạnh bố thí 布施, hạnh
đứng đầu của sáu phép Ba La Mật 波羅蜜, là tạo nhân phước để hưởng quả
phước ở thiên nhân mà thôi, tuyệt nhiên không phải là chơn công đức vô
lậu giải thoát.
Theo Kim Cang Kinh 金剛經, bố thí trụ tướng chẳng khác chi vào chỗ tối,
không trông thấy chi cả. Trái lại bố thí ly tướng ví như có được mắt
sáng lại còn nhờ thêm ánh mặt trời chiếu soi tỏ rạng, trông thấy rõ rệt
các vật. Vua Lương Võ Đế bố thí nhưng còn vọng tâm trụ tướng, không khế
hợp với pháp “tam luận thể không” của Phật. Pháp tam luận thể không gồm
có ba điều dưới đây :
1. Không nghĩ mình là người năng thí.
2. Không nghĩ người nhận là kẻ thọ thí.
3. Không nghĩ vật đưa ra là vật sở thí.
Vua Lương Võ Đế hành bố thí như vậy là việc tạo nhân phước để hưởng
quả phước ở thiên nhân mà thôi. Bậc bồ tát bố thí không bao giờ trụ
trước nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, tức là lìa tất cả tướng và
hành đúng theo “Tam luận thể không” nên phước báu cao cả không thể suy
lường được.
Đạo Đức Kinh 道德經 của Đức Lão Tử cũng dạy (chương 38: Thiên hạ):
“Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức; hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô
đức.” 上德不德, 是以有德; 下德不失德, 是以無德. Có nghĩa là người đức cao không có ý cầu
cái đức cho nên có đức; người đức thấp thì chấp cái đức của mình tạo ra,
nên không có công đức. Như vậy lời nói của Đức Lão Tử không khác “tam
luật thể không” của Đức Phật.
III. Đạt Ma Huyết Mạch Luận
Tổ Sư rời bỏ vua Lương ra đi sau khi đã thuyết pháp tại triều đình
mười chín ngày. Bài pháp này rất danh tiếng, ngày nay còn lưu truyền với
tên gọi là Đạt Ma Huyết Mạch Luận 達磨血脈論. Về cơ bản, bài pháp gồm chín
mục như sau: (1) Bản chất của tâm; (2) Phương thức; (3) Phật Tánh; (4)
Pháp Thân; (5) Tĩnh tâm; (6) Thiền luận; (7) Vô minh; (8) Giác ngộ; (9)
Phật là gì?
1. Bản chất của tâm
Tâm là Phật, không có Phật ở ngoài tâm. Tâm của mỗi người đồng điệu,
tương ứng với thực tại muôn đời, với thực tại muôn nơi. Ngoài thực tại
của tâm thì tất cả chỉ là huyễn tượng, chẳng có nhơn, chẳng có duyên,
chẳng có lý do, chẳng có kết quả, chỉ có hành duy nhứt, đó là tư tưởng
của tâm và sự an nghỉ của tâm, chính là niết bàn.
Tâm là Phật, Phật chính là tâm. Đi tìm một sự vật ngoài tâm mình là
muôn bắt sự trống không. Tưởng tượng Phật lấy ở ngoài tâm, hình dung
Phật ở bên ngoài chính là mê sảng.
2. Phương thức
Vậy thì phải tìm vào trong chứ không nhìn bên ngoài. Phải tự lắng
mình vào mình và tự nhìn thấy Phật Tánh ở nơi chính mình. Tất cả chúng
sanh đều là Phật như mình, không có thiện, không có ác, mà chỉ có động
tác của tâm. Mà tâm là Phật. Không có ích gì sự cúng kiến, sự hoằng pháp
nhiệt thành, giữ giới bố thí, cầu kinh và tất cả những thứ khác chỉ cần
một điều duy nhứt: nhìn thấy Phật ở nơi mình. Sự nhìn thấy ấy sẽ đưa
đến giải thoát và là niết bàn.
3. Phật Tánh
Không có bất cứ một cuốn kinh nào, hay bất cứ một sự tu khổ hạnh nào
có thể đưa ta ra khỏi luân hồi. Sự học kinh và tu khổ hạnh hoàn toàn vô
ích, phù phiếm. Không có một quyển sách nào đáng cho ta mở ra đọc. trong
sự an tĩnh vô vi hoàn toàn hãy kiếm ở nơi mình, nơi chính mình. Đó mới
đúng là Phật. Hãy nhìn Phật nơi mình, đó mới là sự nhìn thấy chơn thật
duy nhứt mà thôi. Tất cả những hình tượng khác đều là sương mù ảo ảnh.
Chỉ có một tội duy nhứt, là tội vô minh, tội không nhận được thấy ra
được Phật Tánh ở nơi chính mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong
cõi vô thường phù du. Ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá lại
hình bóng của mình.
4. Pháp Thân
Pháp Thân nầy đã có vĩnh cửu. Trải qua những luân hồi thăng trầm của
những kiếp, Pháp Thân vẫn vô sinh, không diệt, không thêm, không bớt,
không nhơ nhớp, không bị tẩy sạch, không yêu, không ghét, không đến,
không đi, không đàn ông, không đàn bà, không già, không trẻ, không tu,
không tục, không ừ, không không, v.v.
Pháp Thân không một, mà cũng không nhiều, không thánh mà cũng không
phàm. Pháp Thân thung dung trong những kiếp liên tiếp, trong dòng sinh
tử. Chính Pháp Thân nầy mà ta phải nhìn lại nơi chính mình ta phải di
động và hành động. Pháp Thân chính là thần năng nhập thạch, thần năng
phi hình, nhập thủy bất nịch, nhập hỏa bất phần [xuống nước không chìm,
vào lửa không cháy] trong ánh sáng của tâm. Ta không thể diễn tả Pháp
Thân nầy bằng lời nói. Ngoài những tên khác, ta còn gọi Pháp Thân là
thánh thể (Phật Tánh, Chơn Tâm).
5. Tĩnh tâm
Tất cả những sự vật bên ngoài chỉ là hư ảo, giả tạm chẳng có gì thật
ngoài ra Pháp Thân. Vô ích nguyện cầu, vô ích sùng bái những gì mà chính
là mình, chỉ nên làm sao cho sự yên lặng, sự tĩnh tâm mà thôi. Chính
những cái ấy giúp ta thấy Pháp Thân nơi mình, tức là Phật chính những
biểu tượng vật chất là sai lầm. chính sự sai lầm ấy sẽ giữ ta lại, hoặc
đưa ta vào vòng luân hồi tái sanh. Hãy bỏ đi những giả tưởng về thần
thánh linh thiêng vì đó chính là ảo tưởng phù phiếm.
6. Thiền luận
Không có những gì hơn những ý tưởng vô hình của tâm thoát ra từ Phật
Tánh. Chỉ có một điều ta thấy thật sự là Pháp Thân ở nơi ta. Phật có ý
nghĩa là giác ngộ hay linh giác mà mọi người có thể đạt được. Sự giác
ngộ chính là Thiền. Thiền không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng gì cả.
Đối với ta chỉ đạt đến Thiền là khi ta thấy được Phật Tánh, mà không
kiến tánh thì chỉ là một kẻ phàm tục tầm thường.
Ta có thể nói với những môn đồ của ta như vầy: Các ngươi phải đạt đến
Phật Tánh nơi các ngươi, tức là Pháp Thân, là thánh thể ở nơi chính các
ngươi.
Không thể nào diễn tả được bởi vì không thể nói ra được, cho nên tất cả kinh luận đều vô ích.
Con người sẽ được giải thoát khi nào họ đã phủ nhận tất cả những bóng
ma và những sai lầm ấy, khi họ chỉ gắn liền với Phật Tánh của họ. Giây
phút giác ngộ nầy, giải thoát nầy, mỗi người hãy tự đi đến với chính
mình, giáo lý chỉ có thể giúp đỡ khi người ta chuẩn bị. Giáo lý không
thể tạo ra sự giác ngộ. Lãnh hội được Phật Tánh nơi chính mình, lại
không thể học được Pháp Thân rất giản dị, ta không thể tạo ra được,ta
chỉ lãnh hội được.
Đối với kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh, thì không cần đến thiên đàng
hay cũng không còn sợ vào địa ngục, không còn có mình, không còn có kẻ
khác, không còn gì cả ở bên ngoài.
Vậy thì, việc lãnh hội Pháp Thân là một việc của đức tin tuyệt đối, không còn bị pha lẫn bóng tối của ngờ vực.
7. Vô minh
Kẻ nào lãnh hội được Phật Tánh thì không còn tạo nghiệp nữa dù làm
bất cứ một hành động nào, bởi vì kẻ ấy đã được giác ngộ. Nghiệp chỉ đeo
đuổi những kẻ nào chưa giác ngộ vì kẻ ấy đang còn ở trong vòng ngu tối
vô minh. Chính sự ngu muội này đã tạo ra vòng đầu thai luân hồi ở địa
ngục, làm thú và làm người. Bực giác ngộ không làm nên tội lỗi nữa và
cũng không phạm tội nữa.
8. Giác ngộ
Những kinh kệ, những sự tu khổ hạnh, những công trình nghiên cứu, học
hành chẳng có lợi ích gì cả, còn việc kiến tánh ta không thể nào học
được. Tại sao có người đã chuẩn bị đàng hoàng và có thành tâm đứng đắn,
thế mà vẫn không đạt đến được? Bởi vì nghiệp của họ chống đối lại, vì họ
chưa trả hết nợ, họ chưa đủ trong sạch để đến giác ngộ. Sự hôn mê mù
quáng, sự sai lầm, sự chai cứng, sự bất lực của họ là những hình phạt về
những tội lỗi của họ trong quá khứ.
9. Phật là gì?
Phật ở trong tâm của mỗi người, giữ giới luật tu khổ hạnh, cầu kinh,
học vấn, nghĩa lý, tất cả những việc này chẳng dùng được việc gì cả. Mục
đích duy nhứt mà mỗi người cần phải đạt đến là sự giác ngộ. Khi nào đã
đến sự giác ngộ là một vị Phật. Một vị Phật với tất cả chư Phật, dù cho
kẻ ấy không đọc được một chữ nào hết.
Là Phật, nghĩa là thấy được Phật Tánh nơi chính mình, nơi tâm mình,
bản thể vô hình và không rờ mó được mong manh như hư không. Tâm ấy mỗi
người đều mang trong mình.
Tâm ơi hỡi tâm! Mi lớn đến nỗi bao trùm cả thế giới, mi nhỏ đến nỗi
mũi kim không thể xuyên qua được. Hỡi tâm của ta, mi là Phật, mi chính
là mi, ta phải qua Trung Hoa để truyền đạo lý.
IV. Góp ý của người sưu tập
Đức Đạt Ma Tổ Sư, do theo truyền thống của Tổ Sư Thích Ca Mâu Ni,
truyền dạy giáo lý Phật giáo cho chư môn đồ các Ngài là không nên ỷ lại
nơi tha lực với sự hộ trì của các đấng thiêng liêng vô hình trong việc
tìm kiếm sự giác ngộ để cầu giải thoát cho chính mình, mà phải tự lực
tìm kiếm lấy. Đó thuộc về Nhị Kỳ Phổ Độ với Đức Phật Thích Ca.
Ngày nay, chúng ta ở vào thời kỳ mạt kiếp, nhơn loại vì nhiễm văn
minh vật chất thậm đa nên còn đọa lạc trầm luân rất nhiều ở trần gian.
Vì từ bi thương xót chúng sanh, Đức Chí Tôn Thượng Đế mở Tam Kỳ Phổ Độ,
ban đại ân xá cho nhơn loại. Nếu quyết tâm tu hành chánh đạo, sẽ dễ dàng
giải thoát luân hồi vì chính Đức Chí Tôn giáng trần bằng huyền linh
diệu điển, đổ thần để dìu dắt nhơn loại tỉnh giấc mê để phản bổn huờn
nguyên phục hồi vị cũ ngôi xưa ở Thiên Đình. Đó là tu nhứt kiếp thì ngộ
nhứt thời.
Tín đồ của Tam Kỳ Phổ Độ rất tin tưởng sự trợ lực hộ trì của các đấng
thiêng liêng vô hình, vì chủ trương của Cao Đài là Thiên Nhân Hiệp
Nhứt, hai cõi hữu vô đều trợ lực lẫn nhau, có thiêng linh diệu điển qua
cơ bút, do các đấng giáng lâm chỉ dạy môn sanh tu học và hành đạo. Ơn
Trên thường bảo rằng Đạo vô vi, sư vô vi là vậy. Đó là đặc ân của Cao
Đài Đại Đạo.
Đức Đạt Ma Tổ Sư dạy phải tự mình kiếm cho được Pháp Thân (hay Phật
Tánh, Chơn Tâm) nơi chính mình thì mới giác ngộ, nhập niết bàn được. Đây
là một việc làm cốt yếu, dầu ở bất kỳ thời kỳ nào. Đức Chí Tôn Thượng
Đế dạy “Các con hãy tìm Thầy trong các con và các con trong Thầy” cũng
cùng một lý đạo.
Đức Quan Thế Âm có dạy (15-6 Giáp Dần, 02-8-1974): “Người tu hành học
đạo là tìm cái tâm minh linh đã ẩn tàng hằng tính của Thượng Đế giáng
trung. Người muốn tìm lại, trước phải yên lặng để trau dồi gột rửa những
lớp tham sân si dục đang dầy đặc theo những bức vô minh để thấy được
đạo tài thành của thiên địa. Người noi theo đạo ấy tức là hòa hợp theo
thiên lý phục hồi bổn thể chơn như vậy.”
Đạo Trưởng Chí Tín
Tamduyen