Lương Vũ Đế được
lịch sử Phật giáo ghi nhận là vị vua có nhiều công lao phát triển Phật giáo.
Ông được Phí Trường Phòng, tác giả của bộ Lịch đại Tam bảo ký2, ca ngợi về niềm tin không thể nghĩ
bàn của một vị vua Bồ-tát (信不思議菩薩君也). Thậm chí, một
số nhà nghiên cứu còn cho rằng, sự nghiệp hộ trì Phật giáo của Lương Vũ Đế có
thể sánh với vua A Dục ở Ấn Độ thuở xưa.
|
Tuy nhiên, trong cuộc hội kiến lịch sử với Bồ Đề Đạt Ma vào năm đầu Đại
Thông (527), vua Lương Vũ Đế đã nêu lên trăn trở: Trẫm một đời tạo tự, độ Tăng,
thiết trai bố thí, được bao nhiêu công đức? Tổ Đạt Ma đáp: Không có công đức3.
Hình bên: Tranh vẽ tổ Bồ Đề Đạt Ma.
Câu trả lời của Bồ Đề Đạt Ma như tiếng sét giữa trời quang, làm cho Lương
Vũ Đế và cả triều đình nín lặng. Sau cuộc vấn đạo bất thành, Bồ Đề Đạt Ma đã vượt
sông Dương Tử đi về mạn Bắc.
Trong những công trình nghiên cứu được quy tập trong Đại tạng kinh đại
chính tân tu (ĐTKĐCTT), tùy theo môn quy, tông phái mà đã có nhiều cách luận giải
khác nhau về câu trả lời của Bồ Đề Đạt Ma đối với Lương Vũ Đế. Ở đây, dựa trên
những tác phẩm của chính Lương Vũ Đế cũng như những ghi chép trong Lương thư
(梁 書) và nhiều tác
phẩm liên quan nằm rải rác trong ĐTKĐCTT, chúng tôi cố gắng phác thảo vài nét về
chân dung của ông, cũng như đưa ra những kiến giải bước đầu về một nghi án lịch
sử.
Không hài
hòa trong ứng xử với Tam giáo
Lương Vũ Đế
am tường Tam giáo (Nho, Phật, Lão). Đọc lời tự sự của Lương Vũ Đế trong Thuật tam giáo thi4 có thể thấy
rõ điều đó: Thiếu thời học Nho gia, làu thông kinh Chu,
Khổng (少 時 學 周 孔, 弱 冠 窮 六 經)5… Trung niên cầu Đạo giáo/ Am tường
diệu pháp thuật/ Rành rẽ Danh, Vô danh (中 復 觀 道 書,有 名 與 無 名, 妙 術 鏤 金 版)6 …Khi tóc bạc niên cao, Mới tìm cầu
Phật đạo (晚 年 開 釋 卷)7.Từ sự thừa nhận kể trên, có thể
thấy Lương Vũ Đế có mối quan hệ sâu sắc với tư tưởng Tam giáo.
Trước hết, với Nho giáo, là một bậc quân vương, lẽ dĩ nhiên sự ảnh hưởng
của Nho gia có phần nổi trội. Ông được xem là một trong tám vị thi nhân nổi tiếng
thơ văn thời Nam Bắc triều. Đọc Bài ca về nước giữa dòng sông Hoàng Hà (河中之水歌) có thể thấy được
hồn thơ chan chứa của ông trước thân phận vô định, chênh vênh của những người
thiếu nữ.
Vào năm Thiên Giám thứ tư, ông đã hạ chiếu cho thành lập miếu Khổng Tử
khắp thiên hạ (梁 武 帝 天 監 四 年. 詔 天 下 立 孔 子 廟)9. Quan điểm về
Nho gia còn thể hiện khá nhiều trong những luận giải về Phật giáo của ông. Ngay
những dòng đầu tiên trong tác phẩm Tịnh nghiệp phú, ông đã dùng Thoán
truyện để dẫn luận9. Ảnh hưởng tư
tưởng của Nho gia còn được thể hiện trong luận cứ Trời còn có đức hiếu sinh
(皇德好生)10 khi ông kêu gọi việc ăn chay và không sát hại
chúng sanh. Không những vậy, ông còn dẫn kinh Lễ về việc người quân tử
nên tránh xa bếp núc (君子遠庖廚),11 nhằm kêu gọi việc cúng chay cho tông miếu. Có
thể nói, với lời bộc bạch am tường sáu kinh căn bản của Nho gia khi đến tuổi
trưởng thành (弱冠窮六經) được ghi lại
trong Thuật tam giáo thi, đã chứng tỏ kiến thức về Nho gia đã ngấm sâu
vào ông ngay từ những buổi đầu.
Với Đạo giáo, tuy thừa nhận bản thân có khả năng quán thông những triết
lý, phép thuật căn bản của Đạo giáo, thế nhưng, sau khi hướng Phật, ông đã có
những thái độ gay gắt đối với tôn giáo này. Cụ thể, nhà vua cho rằng, đạo có 96
thứ, chỉ có Phật giáo là chánh đạo, còn 95 tôn giáo kia đều là tà đạo (道 有 九 十 六 種. 惟 佛
一 道 是 於 正 道. 其 餘 九 十 五 種 名 為 邪 道)12. Hơn
thế nữa, đã gọi là đệ tử Phật thuần thành, thì các niềm tin khác ngoài Phật đều
là tà kiến (故 言 清 信 佛 弟 子. 其 餘 諸 信 皆 是 邪 見)13. Sau đó, vào năm Thiên Giám thứ 16 (518), vua
ra sắc dụ phế bỏ các đạo quán của Đạo giáo trong nước, bắt đạo sĩ phải hoàn tục
(十 六 年.
敕 廢 天 下 道 觀. 道 士 皆 反 俗)14. Thái độ của
vua Lương Vũ Đế đối với Đạo giáo, quá cứng rắn và khác xa với cách hành xử của
Đức Phật trong mối quan hệ với các tôn giáo cùng thời15.
Vốn có truyền thống thân cận Tam bảo từ gia tộc, Lương Vũ Đế đã có một
thái độ đặc biệt với Phật giáo. Mở đầu, vào ngày mùng tám tháng tư, năm Thiên
giám thứ 3 (504) sau khi lên ngôi, Lương quốc Hoàng đế Lan Lăng Tiêu Diễn đã
chí thành quy ngưỡng mười phương chư Phật, mười phương tôn Pháp, mười phương
thánh Tăng (維 天 鑒 三 年 四 月 八 日. 梁 國 皇 帝 蘭 陵 蕭 衍 稽 首
和 南. 十 方 諸 佛 十 方 尊 法 十 方 聖 僧)16. Không những tự mình quy hướng Tam bảo, trên
lầu Trùng các của điện Trùng vân, ông cùng Đạo gia và quần thần tự mình viết lời
phát nguyện phát tâm Bồ-đề với số
lượng lên đến hai vạn người (于 時
帝 與 道 俗 二 萬 人. 於 重 雲 殿 重 閣 上.手 書 此 文 發 菩 提 心)17. Từ sự phát tâm quy hướng Tam bảo, Lương Vũ Đế tích cực xây dựng chùa
tháp, quan tâm đến việc giảng kinh, lập
đàn cúng tế và chẩn bần. Có thể nói, Lương Vũ Đế đã dành nhiều sự quan tâm cũng
như tận hiến một phần cuộc đời cho Phật giáo tại Trung Hoa.
Trang nghiêm tự thân nhưng bất cập trong giới luật
Về phương diện đạo đức tự thân, Lương Vũ Đế là vị cư sĩ tại gia có một đời
sống chuẩn mực, nếu không nói quá nghiêm khắc với chính bản thân mình. Chủ
trương ăn chay, không uống rượu, nghe nhạc, y phục đơn giản, chỗ ngủ đơn sơ,
siêng năng lễ sám… Các tiện nghi trong đời sống của Lương Vũ Đế cũng tương tự
như những vật dụng thường ngày của một người xuất gia lý tưởng. Trong những năm
cuối đời, ông chỉ ăn ngày một bữa với thức ăn giản tiện, đạm bạc18.
Với các bậc
cao tăng, ông một lòng phụng kính. Phật Tổ thống kỷ ghi rằng, mỗi khi Huệ
Ước pháp sư (Cũng còn gọi là Lâu Ước) vào triều, Lương Vũ Đế thiết trí một
bảo tọa trang nghiêm dành cho Pháp sư ở giữa, còn bản thân thì ngồi một bên để
thính pháp19. Đặc biệt, có vị Pháp sư người Tây Tạng, vào năm đầu Thái Thanh,
đã đường đột xông vào cung cấm, ngang nhiên ngồi trên ngai vàng và bị thị vệ
truy bức, vua cũng hoan hỷ cho qua20.
Tuy nhiên, có rất nhiều điều cần phải bàn về phương diện thọ trì giới
pháp của vua Lương Vũ Đế. Trong lễ phát nguyện quy y Tam bảo của nhà vua, chúng
tôi vẫn chưa phát hiện tư liệu nào cho thấy Lương Vũ Đế thọ trì ngũ giới, cũng
như không có một vị Tăng nào đứng ra chủ trì Phật sự này. Đây là điều có ý
nghĩa quan trọng. Vì lẽ, quy y Tam bảo thì có thể tự mình thực hiện, còn vấn đề
giới pháp phải do sự truyền thọ của Tăng-già. Không những vậy, sử liệu cũng
không đồng nhất về thời điểm ông thọ giới Bồ-tát.
Trong bối cảnh thực tế, từ lòng nhiệt thành hộ pháp của nhà vua, số lượng
người xuất gia ở thời Lương Vũ Đế tăng nhanh về số lượng và có những dấu hiệu
suy giảm về phẩm chất. Trong khi đó, những vị Tăng có trách nhiệm không thể quản
lý việc của Tăng (時 釋 子 多 縱 逸. 主 僧 不 能 制)21. Đây là một thực tế dẫn đến những
bất cập trong hành xử về giới luật của Lương Vũ Đế.
Ở đây, trước tình hình xuống cấp về phẩm hạnh của một bộ phận người xuất
gia, Lương Vũ Đế muốn trực tiếp can dự vào việc của Tăng. Biết rõ sự nhiệt
thành của hoàng đế, Pháp sư Tây Tạng đã khuyên vua không nên cưỡng làm. Mặc dù
vậy, với quyết tâm thực hiện việc chỉnh đốn Tăng, Lương Vũ Đế đã tự mình thọ cụ
túc giới (帝自受具戒)22. Đây là một
việc làm phi pháp, phi luật của vua Lương Vũ Đế diễn ra vào năm đầu Thái Thanh
(547), và qua đó chứng tỏ những hạn chế nhất định của nhà vua trong việc nhận
thức về giới luật.
Sự kiện này còn được đề cập nhiều lần trong quyển Phật Tổ thống kỷ23. Như nơi quyển 53 của tác phẩm khẳng
định, Lương Vũ Đế thọ cụ túc giới với Huệ Ước pháp sư, riêng các vị thái
tử, công khanh đạo tục bao gồm bốn vạn tám ngàn người thì thọ Bồ-tát giới. Đặc
biệt trong đợt này, có các vị Sa-môn lớn tuổi thì cũng được thọ cụ túc giới (梁 武 帝. 從 約 法 師 受
具 足 戒.太 子 公 卿 道 俗. 從 師 受 戒 者 四 萬 八 千 人 (此 應 受 菩 薩 戒) 沙 門 耆 艾 亦 重 受 戒 法 (此 受 具 足
戒). Từ đây cho
thấy đã có sự phân liệt rõ ràng trong việc thọ giới giữa nhà vua, các vị Sa-môn
già cả, hoàng tộc và số đông dân chúng. Không những thế, trong quyển thứ 51 còn
ghi rằng, Lương Vũ Đế đắp y ruộng phước, lễ Lâu Ước pháp sư thọ cụ túc giới (帝 服 田 衣 禮 婁 約 法 師
受 具 足 戒).
Sự kiện thọ cụ túc giới đã bộc lộ những hạn chế nhất định trong hành xử
về giới luật của Lương Vũ Đế, vì theo tư liệu vừa dẫn ở trên, thì các điều kiện
để tác thành giới thể Tỳ-kheo chưa đảm bảo. Đồng thời, từ việc làm này cho thấy,
đôi lúc Lương Vũ Đế dao động giữa vị trí của một nhà lãnh đạo thế tục và một bậc
lãnh đạo về tâm linh. Việc ra chiếu cất nhắc, chỉ đạo chư Tăng thừa hành Phật sự,
kiểm tra trình độ Phật học của người xuất gia24… là những trường hợp tiêu biểu. Trong lời dẫn
phần đầu của bài văn Khuyên bỏ rượu thịt (斷 酒 肉 文), Lương Vũ Đế
đã bộc lộ quan điểm này khi cho rằng: Phật pháp được gửi gắm cho các vị vua
(佛 法 寄
囑 人 王)25. Ngay như trường hợp thầy dạy cho Thái tử Chiêu Minh, là Lưu Hiệp (通 事 舍 人 劉 勰), một tác gia
văn học với tác phẩm nổi tiếng còn lưu lại đến hôm nay là “Văn Tâm Điêu
Long”, phát tâm xuất gia vào năm Đại Đồng thứ tư, ông đã ân ban pháp danh
là Tuệ Địa (賜 名 慧 地)26. Tuy chỉ là
quán lệ ân ban tên tuổi cho quần thần, nhưng qua đó đã cho thấy Lương Vũ Đế đã
thể hiện năng lực lãnh đạo trên phương diện tinh thần, tâm linh.
Hình bên: Tranh vẽ Lương Vũ Đế.
Việc đoạn
phòng thất và chủ trương ăn chay
Lương Vũ Đế là một vị vua có nhiều điều đặc dị. Hai trong những điều đặc
biệt của vị vua này là chấm dứt việc quan hệ nam nữ trong lúc còn trẻ và chủ
trương ăn chay một cách tuyệt đối.
Theo Lương thư (梁 書), ngoài năm
mươi tuổi thì nhà vua chấm dứt việc phòng thất (五 十 外 便 斷 房 室)27. Đây là việc
khó làm đối với một người bình thường, huống hồ là một nhà vua. Do đó, vua
Lương Vũ Đế đã được nhiều nhà nghiên cứu Phật học quan tâm và dành nhiều thiện
cảm.
Tuy nhiên, trong lời tự thuật của vua Lương Vũ Đế ở Tịnh nghiệp phú,
đã hé lộ đôi điều về việc đoạn phòng thất của vua Lương Vũ Đế: Khi ta hơn bốn
mươi tuổi, thân thể nhuốm bệnh, tứ chi rã rời. Nên hỏi quan danh y Lưu Trừng
Diêu Bồ Đề về nguyên nhân của bệnh. Ngài Lưu Trừng đáp, sở dĩ phát bệnh như vậy
là do ăn uống quá nhiều. Lương Vũ Đế thừa nhận, quả đúng như vậy, ta đây áo mặc
ấm thân, thức ngon sung mãn. Ngài Lưu Trừng nói tiếp, quan trường tiệc tùng suốt
sáng thâu đêm. Ngài nghiêng đầu cười hàm tiếu và nói: Có một điều mà Bồ Đề biết
chắc chắn là do nhà vua phòng thất quá nhiều nên dẫn đến bệnh như vậy. Ngay khi
đó, ta không ăn cá thịt và cũng dứt hẳn việc phòng thất (四 十 餘 年 矣.于 時 四 體
小 惡. 問 上 省 師 劉 澄 之 姚 菩 提 疾 候. 所 以 劉 澄 之 云. 澄 之 知 是 飲 食 過 所 致. 答 劉 澄 之 云. 我 是 布 衣
甘 肥 恣 口. 劉 澄 之 云 . 官 昔 日 食 . 那 得 及 今 日 食 . 姚 菩 提 含 笑 搖 頭 云 . 唯 菩 提 知. 官 房 室 過 多.
所 以 致 爾. 于 時 久 不 食 魚 肉. 亦 斷 房 室)28. Từ sự thừa
nhận này có thể thấy rõ việc ăn chay trường cũng như việc chấm dứt phòng thất
có liên quan đến yếu tố sức khỏe của Lương Vũ Đế. Cùng đồng tình với quan điểm
này, tác giả Nghê Phương Lục29 cho rằng, cụm
từ 四 體 小
惡, chứng tỏ
vua Lương Vũ Đế có khả năng viêm tiền liệt tuyến và thậm chí là liệt dương (的 陽 痿). Căn cứ vào Lương
thư (梁 書), Lương Vũ Đế
đã thừa nhận về tình trạng bệnh tật của mình trong chiếu chỉ ban hành vào năm
Thiên Giám thứ sáu, khi ông cho rằng, bản thân luôn chìm đắm trong bệnh tật (兇 荒 疾 疬)30.
Sau khi tự mình phát nguyện ăn chay, Lương Vũ Đế đã cổ xúy việc ăn chay gần
như trở thành một pháp hành trong tu tập. Các chiếu chỉ liên quan đến việc ăn
chay mà nhà vua đã ban ra như: Chấm dứt việc sát sanh trong việc cúng tế tông
miếu (斷 殺 絕
宗 廟 犧 牲 詔)31; ra lệnh cho
Thái y không được sử dụng các giống sinh vật làm dược liệu (勅 太 醫 不 得 以 生 類 為 藥)32. Đặc biệt,
cao điểm của việc đề cao chủ trương ăn chay là bài văn Khuyên bỏ rượu thịt (斷 酒 肉 文)33. Trong bài
văn này, ngoài những nội dung tích cực nhằm kêu gọi Tăng Ni ăn chay và giữ giới; bản văn cũng thể
hiện sự quá đà khi ví von người tu sĩ Phật giáo không bằng chín hạng ngoại đạo
và không bằng chín hạng người cư sĩ tại gia khi còn ăn thịt và uống rượu.
Cần phải thấy, ăn chay là phương thức sinh tồn mang tính nhân văn và được
nhiều tôn giáo lựa chọn, cổ súy. Ngay trong thời Đức Phật, Kỳ Na giáo cũng chủ
trương tuyệt đối ăn chay và hạn chế sát sanh đến mức tối đa với lý thuyết
Ahimsa (bất hại) nổi tiếng. Đức Phật đã phân tích những bất cập trong chủ
trương của giáo phái này và ngài đã có những lý giải thỏa đáng về lý thuyết bất
hại trên cơ sở tâm bình đẳng, từ bi. Với Đức Phật, do bối cảnh lịch sử, Ngài
không quá đặt nặng chuyện ăn uống và ứng xử mọi chuyện trên tinh thần Trung đạo
và tùy duyên. Trong kinh Tập thuộc Tiểu bộ, ngài đã biện minh khá chi tiết
về việc ăn uống của các vị Tỳ-kheo trong thời kỳ đầu34.
Hơn đâu hết, Đức Phật vẫn kêu gọi bảo hộ sanh linh bằng khả năng có thể;
thậm chí Ngài chủ trương kêu gọi việc cúng tế không nên sát sanh35. Thế nhưng, khi cổ súy việc không sát sanh và
xem việc ăn chay trở nên như một pháp môn tu tập, giữ gìn cứng nhắc như một giới
cấm thủ, cũng là điều đi quá xa so với tôn chỉ căn bản của Phật giáo.
Hâm mộ
quyền năng và tính tình cố chấp
Trong năm đầu lên ngôi, vua đã nằm mộng thấy tượng Phật do vua Ưu Điền ở
nước Thiên Trúc tạo, giáng lâm đất nước mình (天 監 元 年.帝 夢 釋 迦
檀 像 入
國 (天 竺 優 填 王 所 造 者)36. Trong cả cuộc
đời, nhà vua có nhiều giấc mộng liên quan đến Phật giáo và đã có những quan tâm
thâm thiết đến những giấc mộng này, bằng những việc làm cụ thể như xây tháp thờ
Phật, giảng kinh, bố thí.
Trong những biến dị của thiên tai, trời đất, vua Lương Vũ Đế có niềm tin
rất đặc dị. Cụ thể, ngôi nhà cũ của vua phát ánh sáng bảy đêm liên tục, vua bèn
cải gia vi tự thành chùa Quang Trạch (舊宅七夜放光.敕建光宅寺)37. Đặc biệt,
vào năm Đại Đồng thứ ba, trong khi tu sửa nền móng tháp Trường Can, phát hiện bộ
bình kim anh lưu ly đựng xá-lợi tóc và móng của Phật (詔修長干塔.掘基得石凾.內有金罌流離瓶盛舍利爪髮)38. Sự kiện này làm cho nhà vua tăng trưởng niềm
tin Tam bảo và tiến hành nhiều Phật sự quan trọng ngay sau đó như chú tạo tượng
đồng mười phương Phật ở chùa Đồng Thái và ân xá những tội nhân trong thiên hạ. Vào
năm đầu Trung Đại Đồng, tháp của chùa Đồng Thái bị hỏa hoạn. Vua cho rằng do ma
quỷ phá và sau đó xây lại tháp mười hai tầng39.
Với vua Lương Vũ Đế, việc tế lễ cầu cúng có ý nghĩa quan trọng. Ông liên
tục tổ chức các pháp hội Phật giáo. Chính bản thân ông soạn Thủy lục nghi
văn40. Khảo sát chỉ
riêng tác phẩm Phật Tổ thống Kỷ, đã cho thấy Lương Vũ Đế tổ chức: Vô
già đại hội (Panca Vàrsika Maha), Cứu khổ trai, Đạo tục đại
trai, Vô ngại pháp thực, Vu lan bồn trai, Nhân vương trai, Thủy lục đại trai …
với hàng vạn người tham dự trong mỗi lần đại hội. Đành rằng, việc cúng tế là việc
cần, thế nhưng, khi nhà lãnh đạo đất nước đưa việc tổ chức cúng tế, lễ hội lên
một tầm mức mới và thường xuyên, thì sẽ tạo nên những bất cập trong niềm tin, ứng
xử.
Với Phật giáo, niềm tin rất quan trọng. Lương Vũ Đế có niềm tin vững chắc
về ba ngôi Tam bảo. Đó là phước báu của bản thân ông và là sự thật được ghi nhận
bởi chính sử. Thế nhưng, đi sâu vào niềm tin của Lương Vũ Đế, ngoài đức tin vững
chãi nơi ba ngôi Tam bảo, thì đôi khi niềm tin của ông còn được thể hiện như là
một dạng biến thể của tính cố chấp.
Từ sự cố chấp trong niềm tin khi xem Phật giáo là chánh đạo, ông đã không
những cải đạo bản thân, hoàng tộc, thần dân mà còn bắt đạo sĩ của Đạo giáo hoàn
tục, phế bỏ tất cả những cơ sở của Đạo giáo khắp đất nước. Đây là một ứng xử
quá mức cố chấp và cứng nhắc. Kinh nghiệm ứng xử với các tôn giáo gần một ngàn năm trước của
Đức Phật,41 của đại đế
Ashoka42 cho thấy rằng, Phật giáo luôn dung dị, khoan hòa và nhuần
nhuyễn với các tôn giáo khác.
Ngay như việc xây dựng chùa chiền, Lương Vũ Đế đã không có những cân nhắc
cần thiết khi sử dụng tài sản chung của quốc gia. Khách quan mà nhìn nhận,
Lương Vũ Đế góp phần phát triển Phật giáo thông qua hình ảnh ngôi chùa tại đất
nước Trung Hoa. Mặc dù vậy, trong một vài trường hợp, Lương Vũ Đế hơi nghiêng về
một thái cực trong việc kiến tạo các công trình Phật giáo. Việc xây dựng chùa Đồng
Thái là một ví dụ điển hình, vì chi phí xây dựng công trình đã làm cho quốc khố
bị cạn kiệt (窮 竭 帑 藏)43.
Bên cạnh đó, từ lịch sử cho thấy, đến thời Lương Vũ Đế, kinh sách Phật
giáo vẫn chưa đầy đủ, phong phú. Mãi đến thời nhà Đường (618-906), kinh điển Phật
giáo vẫn còn những bất cập nên ngài Huyền Trang mới phát nguyện Tây du44. Khảo sát về cơ sở lý luận của Lương Vũ Đế
trong những tác phẩm của ông cho thấy, chất liệu Phật học vẫn chưa nhiều, nếu
không nói là còn mang dấu ấn của Nho và Lão. Ngay cả việc cổ súy ăn chay trong
bài văn Khuyên bỏ rượu thịt (斷 酒 肉 文) cũng cho thấy
sự khập khiễng, cố chấp trong lý luận của ông. Tin kinh giáo là điều quý, nhưng
tin một cách quá mức về những kinh giáo chưa được khảo nghiệm và tuyển trạch,
là một đức tin dễ tạo nên những di họa khôn lường cho bản thân và cho cả thế hệ.
Đó cũng là cảm nhận rất thẳng thắn và mạnh bạo của đại thi hào Nguyễn Du,
khi ông sang Trung Hoa và đứng bên Đài đá phân kinh của Lương Chiêu Minh
thái tử: Tâm si theo Phật, Phật thành ma. Cha con một nhà ngờ nghệch cả (癡 心 歸 佛 佛 生 魔, 一
門 父 子 多 膠 蔽)45.
Kết luận
Yếu tính nhân duyên luôn có mặt trong mọi dạng thức của đời sống. Sự vận
hành của nguyên lý này vô cùng vi tế và không giản đơn. Quán sát một sự kiện, một
con người, cần phải thấy rõ những yếu tố nhỏ nhiệm, lẫn khuất và chi phối bên
trong, mới phần nào thấu đạt chân tướng của một con người hay sự vật, hiện tượng.
Việc xây chùa, tạo tượng, độ Tăng, bố thí… lẽ tất nhiên vẫn có phước báo
và mức độ cao, thấp tùy thuộc vào tâm thế cùng các điều kiện cụ thể của người
thực hiện. Mái tranh đơn sơ của người thợ gốm Ghatikara nghèo khó cúng dường Đức
Phật Kassaspa46, vẫn chứa đựng
nhiều giá trị cao tột hơn điện đài nguy nga, nếu như công trình đó là kết quả của
việc vắt kiệt sức dân và vun bồi tự ngã, dù đó là tự ngã tâm linh. Tổ Bồ
Đề Đạt Ma, một bậc thánh Tăng có nội chứng, thế nên phát biểu của Ngài dựa trên
sự quán thông chân tướng của các pháp. Khảo sát về những góc khuất trong cuộc đời
của Lương Vũ Đế, đã cho thấy tính khách quan và chân thực trong câu trả lời của
Tổ sư.
Đã có nhiều nghiên cứu của các nhà Phật học có thẩm quyền viết về cuộc đời
cũng như các phương diện đóng góp của vua Lương Vũ Đế. Qua những điều vừa trình
bày, người viết chỉ mong góp một hướng lý giải tồn nghi về cuộc hội kiến lịch sử
giữa Bồ Đề Đạt Ma và Lương Vũ Đế. Trên tinh thần cầu thị, người viết mong mỏi sự
chung tay góp sức của thức giả quan tâm, nhằm làm sáng tỏ thêm về một nghi án
trong lịch sử Phật giáo.
Chú thích
(1)大正新脩大藏經第四十九冊 No 2034, 歷代三寶紀卷第十一. Tuy
nhiên, theo 大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集, 卷第四, 捨事李老道法詔, thì
Lương Vũ Đế lên ngôi năm 34 tuổi, nắm quyền 49 năm.
(2) 大正新脩大藏經第四十九冊 No
2034, 歷代三寶紀卷第十一(譯經齊梁周).
(3)大正新脩大藏經第四十八冊 No 2008, 六祖大師法寶壇經,
疑問第三. Xem thêm: 大正新脩大藏經 第五十一冊 No 2076, 景德傳燈錄卷第三; 大正新脩大藏經第四十九冊 No 2035, 佛祖統紀卷第二十九.
(4) 大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集統歸篇第十卷三十.
(5) Lục Kinh: kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, kinh Lễ, kinh Nhạc
và kinh Xuân Thu. Thời Lương Vũ Đế, Lục kinh Nho giáo vẫn còn, như vậy, nghi án
cho rằng Tần Thủy Hoàng đốt mất kinh Nhạc cần phải khảo cứu lại.
(6) Sđd.
(7) Sđd.
(8)大正新脩大藏經第四十九冊 No 2035, 佛祖統紀卷第五十四. Lương thư (梁 書) cũng ghi lại điều này.
(9)君子道消小人道 長
(10)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103,廣 弘 明 集,
慈 濟 篇 序 卷 第 二 十 六, 斷 殺 絕 宗 廟 犧 牲 詔.
(11)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103, 廣 弘 明 集, 慈 濟 篇 序 卷 第 二 十
六, 斷 殺 絕 宗 廟 犧 牲 詔.
(12)大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集, 卷第四,
捨事李老道法詔.
(13) Sđd.
(14)大正新脩大藏經第四十九冊No 2035, 佛祖統紀卷第五十四.
(15) Kinh Trung bộ, tập 1, Kinh Ưu ba ly, số 56. NXB. Tôn Giáo,
2012, tr.462-463.
(16)大正新脩大藏經第五十二冊 No
2103, 廣弘明集, 卷第四, 捨事李老道法詔.
(17) Sđd.
(18)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第
37 卷.
(19)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第
51 卷.
(20)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第
37 卷.
(21) Sđd.
(22) Sđd.
(23)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀.
(24)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 51 卷.
(25) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊No 2103, 廣 弘 明 集,慈 濟 篇 序 卷 第 二 十 六, 斷 酒 肉 文. Bản dịch tiếng Việt của Hòa thương Thích Phước Sơn. Xem
thêm, HT. Thích Phước Sơn, Một số vấn đề về giới luật, NXB. Phương Đông, 2010
(26) Sđd.
(27) 梁 書, 卷第三本紀,武帝下.
(28)大正新脩大藏經第五十二冊 No 2103, 廣弘明集統歸篇序第二十九.
(29) Xem thêm, 倪方六, 帝王秘事,湖北人民出版社出版.
(30)梁 書,卷 第 二本 紀, 武帝中.
(31)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103, 廣 弘 明 集, 廣 弘 明 集, 慈濟篇序卷第二十六.
(32)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 52 卷.
(33)大 正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 二 冊 No 2103, 廣 弘 明 集,
慈 濟 篇 序 卷 第 二 十 六, 斷 酒 肉 文. Xem, bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Phước
Sơn, Một số vấn đề về giới luật, NXb.
Phương Đông, 2010, tr.213.
(34) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương Hai, Tiểu phẩm, kinh Hôi thối.
(35) Kinh
Trường Bộ, tập 1, kinh Cứu la đàn đầu.
(36)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 37 卷.
(37)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第
53 卷.
(38)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第 37 卷.
(39)Sđd.
(40)大正新脩大藏經, 第 49 冊, No 2035 佛祖統紀, 第
51 卷.
(41) ĐTKVN,
kinh Tăng chi bộ, tập 2, chương 4 pháp, Đại phẩm, kinh Bhaddya, VNCPHVN, 1996, tr. 191.
(42) Xem thêm: Ven.S.Dhammika, the Edicts of King Ashoka, the fourteen
Rock Edicts, XII. (www-accesstoinSight.org).
(43) 大正新脩大藏經第五十一冊
No 2094, 梁京寺記, 同泰寺.
(44)大正新脩大藏經第五十二冊, 史傳部, No 2119 寺沙門玄奘上表記.
(45) 阮攸, 北行雜錄, 梁 昭 明 太 子 分 經 石 臺.
(46) ĐTKVN, kinh Trung bộ, tập 2, kinh Ghatikara, VNCPHVN, 1992, tr. 493.
Chúc Phú