Dòng dõi đế vương
Thiền sư Khuông Việt sinh năm 933, quê ở thôn Cát Lợi, huyện Thường Lạc,
nay thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa. Nhiều người biết rằng, Khuông
Việt vốn chỉ là pháp hiệu, còn tên của ông là Ngô Chân Lưu. Tuy nhiên,
có lẽ ít người biết rằng, Ngô Chân Lưu cũng chỉ là tên giả. Trên thực
tế, thiền sư Khuông Việt tên thật là Ngô Xương Tỷ và là con cháu thuộc
dòng dõi đế vương. Theo phả hệ họ Ngô ở Việt Nam, ông là con cả của
Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập và là anh trai của sứ quân Ngô Xương
Xí, tức là cháu đích tôn của Tiền Ngô vương Ngô Quyền, vị vua đầu tiên
của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam.
Ngô Xương Tỷ ra đời dưới thời cai trị của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ cha
vợ của ông nội ông là Ngô Quyền. Tới năm 937, thế lực họ Kiều ở Châu
Phong tổ chức binh biến, giết chết Dương Đình Nghệ, đưa Kiều Công Tiễn
lên nắm quyền. Công Tiễn tự xưng Tiết độ sứ. Hành động này đã gặp phải
sự phản ứng mạnh mẽ của các thế lực hào trưởng các địa phương, thậm chí
chính nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng.
Ngô Quyền, với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của vị cố Tiết độ sứ,
đồng thời cũng là người gây dựng liên minh Ngô - Dương, tập hợp lực
lượng tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội
vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán Cao Tổ sai con trai của
Lưu Hoằng Tháo đem hai vạn quân, dùng chiến thuyền, xâm lấn Tĩnh Hải
quân, tức Việt Nam ta.
Năm 938, Ngô Quyền đem quân ra Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn và nhanh
chóng tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Lợi
dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc
dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc
bị che lấp. Ngô Quyền dự định nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi
thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc
cạn mới giao chiến.
|
Khương Việt thiền sư |
Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa
quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lấn Tĩnh Hải quân. Với
mưu lược thần tình của mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng
nổi tiếng, kết thúc hơn một thiên kỉ Bắc thuộc, mở ra thời kỳ phong
kiến độc lập tự chủ cho Việt Nam.
Sau 6 năm trị vì, tới năm 944, Ngô Quyền qua đời. Trước khi Ngô Quyền
mất, ông ủy thác con trưởng của mình là Ngô Xương Ngập, tức cha của Ngô
Xương Tỷ cho Dương Tam Kha – em của vợ mình là Dương hậu. Dương Tam Kha
lợi dụng Ngô Xương Ngập còn nhỏ, chưa đủ sức nắm triều chính đã chiếm
ngôi của nhà Ngô. Cha của Xương Tỷ phải bỏ trốn chạy về nhà một hào
trưởng là Phạm Lệnh Công ở làng Trà Hương, Nam Sách.
Ở đó cha ông đã lấy con gái của Phạm Lệnh Công và sinh ra người em trai
Xương Xí. Cũng trong thời gian ấy, Dương Tam Kha lên ngôi xưng là Dương
Bình Vương, ra lệnh truy bắt cha ông rất gắt gao nhưng không bắt được.
Có lẽ trong giai đoạn gia đình ông phải chạy trốn sự truy đuổi gắt gao
của ông cậu Dương Tam Kha, cha ông đã đổi tên cho cậu con trai cả rồi
gửi ông vào nơi cửa Phật để thoát khỏi họa sát thân.
Mặc dù truy sát gắt gao cha ông là Xương Ngập, người kế thừa ngai báu
một cách chính thức, song Dương Tam Kha lại nhận chú của ông Ngô Xương
Văn làm con nuôi. Vì vậy, tới năm 950, Ngô Xương Văn đã lật đổ Dương Tam
Kha chiếm lại ngôi báu. Tuy nhiên, Xương Văn không giết Tam Kha mà chỉ
giáng xuống làm Chương Dương công.
Điều đáng nói chính là sau Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, chiếm lại
ngôi báu, xưng là Nam Tấn Vương thì theo ý của Dương thái hậu đã cho
người đón cha ông là Xương Ngập về cung và phong làm vua, gọi là Thiên
Sách vương. Lúc đó, cùng tồn tại hai vua, sử sách gọi là Hậu Ngô Vương.
Tuy nhiên, khi đã trở thành Thiên Sách vương không hiểu vì sao cha ông
lại không đón ông về cung. Dẫu sao cũng nhờ vậy mà chúng ta có vị quốc
sư đầu tiên trong lịch sử Đại Việt.
Quy y cửa Phật
Theo sử sách ghi chép thì Ngô Xương Tỷ từ nhỏ đã có tướng mạo khôi ngô,
tính tình phóng khoáng. Từ nhỏ, ông đã theo học Nho tới khi lớn lên mới
quy y cửa Phật. Lúc bấy giờ Xương Tỷ đã có tên là Ngô Chân Lưu cùng
người bạn học là Trụ Trì tới chùa Khai Quốc, nay là chùa Trấn Quốc để
xin học với thiền sư Vân Phong và thọ giới Cụ túc tại đây. Thọ giới Cụ
túc, tức nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời
sống tập thể của tổ chức Phật giáo.
Thường thường, những kỷ luật ấy gồm rất nhiều những điều luật, mà tùy
theo tôn phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai trăm đến 500 giới,
dùng cho đời sống cá nhân. Khi một người nào chịu nhận những điều luật
đó, họ được gọi là Tỳ kheo nếu là đàn ông, hay Tỳ kheo ni nếu là đàn
bà, và họ là những người đã thọ Cụ túc giới.
Bắt đầu từ đây, Ngô Chân Lưu đọc khắp các sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ
của Thiền Tông. Sau khi theo học thiền sư Vân Phong một thời gian, Ngô
Chân Lưu bắt đầu du ngoạn các nơi, tham vấn Thiền học. Chuyện kể rằng,
một lần, Ngô Chân Lưu đi chơi núi Vệ Linh, ở quận Bình Lỗ, nay thuộc
huyện Kim Anh thấy phong cảnh nơi đây thanh bình, tĩnh lặng thích hợp
cho việc tu hành nên nảy ra ý định lập am để ở.
Ngay đêm hôm đó, Ngô Chân Lưu nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo
giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười
người theo hầu, tướng mạo rất dễ sợ, bước đến gần nói rằng: “Ta là Tỳ Sa
Môn thiên vương, những người theo ta là dạ xoa.
Thiên đế có chỉ lệnh sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho
Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi
biết”. Ngô Chân Lưu giật mình tỉnh dậy, nghe trong núi có tiếng huyên
náo lòng rất lấy làm lạ. Sáng hôm sau, Ngô Chân Lưu vào núi, thấy một
cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây
xanh bao phủ trong lòng mừng thầm mới sai thợ đến chặt, đem về, khắc
tượng như đã thấy trong mộng rồi lập am để thờ.
Vị quốc sư lừng danh
Tới năm thiền sư Ngô Chân Lưu 40 tuổi, danh tiếng của ông đã vang tới
tận triều đình. Tới năm 969, vua Đinh Tiên Hoàng, người đã dẹp loạn 12
sứ quân, thống nhất đất nước đã mời thiền sư Ngô Chân Lưu tới gặp. Sau
cuộc nói chuyện rất tâm đầu ý hợp, Đinh Tiên Hoàng đã quyết định phong
cho thiền sư Ngô Chân Lưu chức Tăng thống. Ngô Chân Lưu trở thành vị
thiền sư đầu tiên giữ chức Tăng thống trong lịch sử Việt Nam.
Cho mãi tới các triều đại Trần, Lê về sau, chức này vẫn còn được sử
dụng. Tuy ngày nay, sử sách không ghi rõ nhiệm vụ của người giữ chức vụ
nay, song có thể hiểu nó như một chức vị đứng đầu và quản lý tăng nhân
trong cả nước, tương đương với chức vị Quốc sư trong các cách hiểu sau
này. Hai năm sau đó, năm Thái Bình thứ 2 tức năm 971, Đinh Tiên Hoàng
phong cho thiền sư Ngô Chân Lưu pháp hiệu là Khuông Việt thiền sư với ý
nghĩa là người tu sửa, chấn hưng Phật giáo nước Việt. Cái tên Khuông
Việt của thiền sư Ngô Chân Lưu cũng bắt nguồn từ thời điểm đó.
Tới năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng bị giết, thái tử Đinh Toàn mới 6
tuổi được đưa lên ngôi, do Lê Hoàn, người lúc đó đang giữ chức tổng chỉ
huy quân đội Đại Việt làm nhiếp chính. Tới 980, trước nguy cơ xâm lược
của nhà Tống, thái hậu Dương Vân Nga cùng các đại thần đã tôn Lê Hoàn
lên ngôi vua để lãnh đạo công cuộc chống lại cuộc xâm lược của quân
Tống. Dưới thời trị vì của Lê Hoàn, thiền sư Khuông Việt tiếp tục được
trọng dụng trong vài trò của một Tăng thống. Và đây là khoảng thời gian
diễn ra câu chuyện ngoại giao nổi tiếng của thiền sư Khuông Việt và
Pháp Thuận.
Năm 987, người đứng đầu phái bộ của nhà Tống là Lý Giác tới Việt Nam. Lê
Hoàn đã nhờ Pháp Thuận và Khuông Việt cùng đứng ra đón tiếp. Pháp
Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương, để
đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra tiếp. Trước
khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã ra lệnh cho Khuông Việt viết một
khúc nhạc để tiễn đưa phái bộ.
Và Khuông Việt đã viết bài từ “Vương Lang Quy” nổi tiếng cho tới tận
ngày nay. Đây là một loại từ khúc lưu hành khá phổ biến thời bấy giờ, có
thể dùng như lời của một bản nhạc để hát với việc sử dụng các nhạc khí
để tấu kèm theo. Khúc từ này vốn có tên là “Ngọc Lang Quy”, mà truyền
bản nhà Nguyễn viết thành “Vương Lang Quy”. Đây có thể nói là lần đầu
tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính
trị ngoại giao.
Về cuối triều Lê, Ngô Chân Lưu già yếu xin từ quan về núi Du Hý, lập
chùa trụ trì, người học tìm tới rất đông. Ngày 15 tháng 2 năm Thuận
Thiên thứ 2 (1011) tức ngày 22/3/1011 dương lịch, ông viên tịch, thọ 78
tuổi. Khi sắp cáo tịch, Thiền sư Ngô Chân Lưu – Khuông Việt quốc sư có
dạy sư Đa Bảo kệ rằng: "Trong cây vốn có lửa, Có lửa, lửa mới bừng, Nếu
bảo cây không lửa, Cọ xát do đâu bùng?”.