thành phố Huế. Chùa nằm trên một quả đồi, cây cối xanh tốt
xung quanh. Từ ngoài nhìn vào, trông chùa rất nhỏ, có thể vẫn giữ theo
dáng xưa: chính điện có ba gian, phía trước thờ Phật, thánh; phía sau
thờ tổ và chư hương linh bổn tự. Chùa do Thiền sư Khánh Thụy - Minh Tính
khai sơn vào cuối thế kỷ XIX. Theo long vị, Thiền sư thuộc đời 38 tông
Tào Động1. Hiện vẫn còn một tháp cổ, cách chùa khoảng 200m về phía tay
phải thờ Thiền sư. Ngôi tháp cao ba tầng, phần thân và tường có một vài
chỗ bị đổ, văn bia mờ chỉ đọc được tên là Khánh Thụy. Ngoài ra, chưa
biết gì về tông tích của Thiền sư.
Kế thế trụ trì là đại sư Tánh Tình - Nhất Xương. Trong bản in Diệm khẩu du già tập yếu thí thực khoa nghi thì Sư thuộc tông Tào Động, có thể là đệ tử của Thiền sư Khánh Thụy. Còn Thần chủ đề: “Lâm Tế chính tông đệ tam thập cửu thế, sùng hưng Thiên Hòa tự trụ trì húy Tánh Tình hiệu Nhất Xương đại sư giác linh tọa vị”.
Dựa vào tên húy cùng đạo hiệu, chúng tôi đối chiếu với các Thiền sư
sống trong giai đoạn Minh Mệnh thì thấy có nhiều vị có chữ Húy là Tánh,
hiệu bắt đầu chữ Nhất như Thiền sư Tánh Thiên - Nhất Định (chùa Báo
Quốc, Từ Hiếu), Tánh Huệ - Nhất Nguyên (chùa Huệ Lâm), Tánh Toàn - Nhất
Thể (chùa Bảo Lâm), Tánh Chiêu - Nhất Niệm (chùa Báo Quốc), Tánh Thông -
Nhất Trí (chùa Từ Quang)…Các ngài đều là đệ tử của Thiền sư Đạo Minh -
Phổ Tịnh, chùa Báo Quốc. Tra vào Hàm Long sơn chí,
quyển 1, phần “Phổ Tịnh hòa thượng pháp tự” thì có tên Thiền sư Tánh
Tình - Nhất Xương. Như thế, có thể Thiền sư cầu pháp với tổ Đạo Minh -
Phổ Tịnh. Sách Hàm Long sơn chí có chép bài kệ phú pháp của ngài Đạo Minh - Phổ Tịnh ban cho ngài Nhất Xương:
一昌法光明
塵掃鏡重圓
續焰傳付囑
如月印江天
Nhất xương pháp quang minh,
Trần tảo kính trùng viên.
Tục diệm truyền phú chúc
Như nguyệt ấn giang thiên.
Dịch:
Nhất Xương đạo sáng rõ
Bụi hết gương tròn đầy
Nối lửa truyền trao phó
Như trăng in sông dài.
(Nguyễn Lê Châu dịch)
Truy tìm tư liệu về ngài cũng chỉ biết đến thế. Trên bàn tổ còn có
một thần chủ thờ ngài Hải Đức - Hoằng Ân2. Vị này cũng không thấy tư
liệu nào ghi chép lại, đành chỉ đề tên. Về phía tay trái bàn tổ có long
vị của hòa thượng Chơn Nguyên. Ngài là đệ tử của hòa thượng Huệ Minh,
trụ trì tổ đình Từ Hiếu. Có thể chùa Thiên Hòa một thời gian không có
trụ trì, sau cung thỉnh được ngài Chơn Nguyên kế nghiệp. Ngài đứng ra
trùng tu chùa3 và xin ban biển sắc tứ. Sau khi hòa thượng Chơn Nguyên
viên tịch, chùa do con cháu ngài quản lý. Hiện nay, chùa Thiên Hòa thuộc
loại chùa tư.
Ảnh chup từ bản "Lịch Truyện Tổ Đồ" (Suối Nguồn số 1)
Khi chúng tôi hỏi đến tư liệu Hán Nôm thì vị chủ chùa mang ra quyển Lịch truyện tổ đồ giới
thiệu là một tập tư liệu quí. Lật từng tờ đọc thì đúng là sách ghi chép
về sự truyền thừa từ chư tổ đến hòa thượng Chơn Nguyên. Ở Huế, chỉ có
chùa Thiền Tôn là còn giữ một bản có nội dung tương tự như sách trên.
Văn bản gồm có tất cả 96 tờ, kể cả bài tựa. Sách được người bảo quản
làm bìa bằng chất liệu giấy sắc phong màu vàng, bao bọc ni lông, có kẻ
khung màu mực xạ, nền màu đỏ đề tên “Phật tổ lịch sử dung tượng”. Tờ
tiếp theo có ghi bốn chữ lớn, theo thể chữ triện Lịch truyện tổ đồ.
Bài tựa chiếm 3 tờ, mỗi tờ hai trang, mỗi trang 5 dòng, mỗi dòng 12
chữ, to, rõ, đẹp. Bài tựa do Thiền sư Bản Quả - Khoáng Viên4 đời 32 dòng
Lâm Tế chính tông tại chùa Báo Tư, Quảng Châu, Trung Quốc viết vào năm
Khang Hi Tân Mùi (1691). Trên gáy của phần tựa chia làm ba khoảng, phần trên đề Lịch truyện tổ đồ,
phần giữa đề “Tự”, phần cuối đánh số tờ. Từ tờ thứ 4 cho đến hết chính
là nội dung quyển sách. Trong một tờ được chia làm hai mặt, mặt đầu vẽ
tranh Phật, chư tổ, mặt thứ hai ghi sơ lược hành trạng, cũng như các bài
kệ, tán. Do đó, tờ 4a có tranh đức Phật Thích Ca theo kiểu niêm hoa vi
tiếu của Thiền tông. Tờ 4b dòng đầu ghi “Lịch tuyện tổ đồ tán”, dòng thứ
hai ghi tên người soạn văn bản là sa môn Đạo Mân5 được sắc phong Hoằng
Giác Thiền sư ở chùa Hoằng Pháp trên núi Thiên Đồng, Minh Châu. Dòng thứ
3 ghi Thủy tổ Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây chính là sơ lược lịch sử Phật
Thích Ca, chiếm khoảng 3 tờ. Các mặt khắc chữ ở trong sách được kết cấu 9
dòng, số chữ mỗi dòng không thống nhất, có dòng 20 chữ, có dòng lên đến
23 chữ. Ở tờ 7b có khắc khung hình tròn, bên trong viết bốn chữ lớn
“Phật pháp tăng bảo”. Tờ thứ 9 đến hết sách thì phía trước đề ảnh, phía
sau viết nội dung. Sách họa được 79 bức hình và sơ lược hành trạng chư
tổ. Vị cuối cùng là Thiền sư Chơn Nguyên trụ trì chùa Thiên Hòa. Các bức
tranh vẽ khá đẹp, chữ viết trong văn bản dưới dạng chữ chân phương.
Từ sự mô tả sơ lược văn bản, chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu một số
vấn đề có liên quan đến văn bản học của tác phẩm. Trước hết, tác giả của
sách chính là Thiền sư Đạo Mân - Mộc Trần. Ngài là sư ông của tổ Nguyên
Thiều - Thọ Tông6, người đã phát triển kệ phái dòng Thiên Đồng tại Đàng
Trong. Theo bài tựa sách cho biết, Thiền sư Hoằng Giác lúc ở núi Thiên
Đồng đã biên soạn Lịch truyện tổ đồ từ truyện Phật Thích Ca cho đến Mật Vân - Viên Ngộ, có họa hình chư tổ. Còn phần tán ngữ, Ngài sử dụng lại từ bản Bảo Tích lục.
Không biết văn bản này có được khắc in không? Nhưng theo bài tựa thì sư
đem cúng dường cho các chùa trên núi Thiên Đồng. Có thể những ngôi chùa
này đều thuộc về dòng phái Bổn Sơn kế thừa từ Thiền sư Viên Ngộ. Cũng
theo bài tựa cho biết Hòa thượng Nguyên Kỳ giáo hóa tại Nhật Bản có mang
qua một bản, được môn nhân Tuyết Phong - Nhất Công san khắc. Và mùa thu
năm Tân Mùi (1691), ngài Nguyên Thiều có gởi một phong thư đến
Quảng Châu, muốn khắc bản để lưu hành tại Đàng Trong. Do đó mà Thiền sư
Bản Quả, bổn sư của ngài Nguyên Thiều, mới viết tựa gởi sang Việt Nam
để khắc in. Đây chính là những thông tin quí giúp chúng ta xác nhận rõ
tác giả của văn bản, cũng như quá trình lưu truyền văn bản tại hai nước
Nhật Bản, Việt Nam.
Khi đã xác định rõ văn bản do Thiền sư Đạo Mân viết chỉ đến truyện
Thiền sư Viên Ngộ là dừng lại, thì phải có người tục biên thêm đến các
tổ Việt Nam chứ? Đây chính là câu hỏi cần được giải đáp một cách rõ ràng
để xác định người tục biên tác phẩm. Ở tờ 80b tức phần tục biên, truyện
Thiền sư Đạo Mân có nói ngài là tổ 8 đời của quốc sư Từ Minh - Liễu
Triệt, chùa Giác Hoàng và tổ 11 đời của bổn sư Thanh Minh - Tâm Truyền,
chùa Diệu Đế, đệ tử Trừng Khiết - Như Như Đạo Nhân7 chùa Báo Quốc. Khi
đối chiếu với hai bài kệ của tổ Vạn Phong - Thời Ủy và kệ phái dòng Liễu
Quán thì đúng với cách tôn xưng trên. Điều quí nhất chúng ta biết được
là người tục biên đã tôn xưng ở ngôi thứ nhất, tức dùng chữ đệ tử và nói
về thầy mình dùng từ bổn sư. Qua đây, chúng tôi xác nhận Như Như Đạo
Nhân chính là người tục biên quyển Lịch truyện tổ đồ8.
Điều này sẽ rõ ở truyện Thiền sư Đại Sa - Siêu Trường, bổn sư của ngài
Minh Hoằng - Tử Dung. Chúng tôi sẽ bổ sung một số ý kiến thêm vào luận
điểm trên.
Sách tục biên nhưng chưa được thống nhất, bỏ qua hình ảnh và truyện
Thiền sư Bản Quả - Khoáng Viên, từ Thiền sư Đạo Mân đời 68 đến Thiền sư
Nguyên Thiều đời thứ 69 là chưa đúng, Nguyên Thiều phải là đời thứ 70
mới hợp lí trên cách thức ghi chép truyền thừa. Trong tiểu truyện Thiền
sư Nguyên Thiều, ở dòng thứ 2 bỏ một đoạn trống, từ “Tạ thị tử” bỏ
khoảng đến “Bát nguyệt tuất thời sinh” là thiếu năm9. Đối chiếu với văn
bia tháp tổ được Thiền sư Liễu Chơn - Từ Hiếu khắc lại, cho biết: “Tạ
thị tử, Mậu tý niên ngũ nguyệt thập bát nhật tuất thời đản sinh…”. Như
thế thì viết thiếu và có sai tháng.
Trong các tiểu truyện các tổ truyền thừa tại Việt Nam như ngài Minh
Hoằng Tử Dung, Liễu Quán, Tế Nhơn, Đại Cận Phước - Dương, Đạo Minh - Phổ
Tịnh, Tánh Thiên - Nhất Định, chúng tôi thấy Như Như Đạo Nhân đã lấy
lại từ sách Hàm Long sơn chí, quyển 3 có sửa đổi một
số lỗi, lược bỏ một số đoạn nhỏ hoặc có thể ngược lại. Phần Thiền sư
Minh Hoằng - Tử Dung có ghi thêm bài kệ truyền thừa dòng Lâm Tế Chúc
Thánh. Từ phần truyện Thiền sư Hải Thiệu - Cương Kỷ, Thanh Thái - Huệ
Minh và Chơn Nguyên thì không thấy chép trong sách Hàm Long sơn chí.
Có thể sơn môn Từ Hiếu đã tục biên thêm hai vị trụ trì là Hải Thiệu và
Huệ Minh. Rồi khi phái truyền về Thiên Hòa thì lại được hậu huệ Thiền sư
Chơn Nguyên chép thêm hành trạng của ngài vào sách.
Tại Huế, chùa Thiền Tôn còn có một bản Lịch truyện tổ đồ ghi
chép có phần giống với sách tại chùa Thiên Hòa. Khi đến tổ Nhất Định
thì hai bản chép khác nhau. Bản chùa Thiền Tôn chép tiếp đến hòa thượng
Diệu Giác chùa Báo Quốc, Thiền sư Thanh Ninh - Tâm Tĩnh chùa Tây Thiên
và truyện hòa thượng Giác Nhiên chùa Thiền Tôn. Còn bản chùa Thiên Hòa
chép tiểu truyện hòa thượng Hải Thiệu - Cương Kỷ, hòa thượng Huệ Minh
chùa Từ Hiếu và hòa thượng Chơn Nguyên chùa Thiên Hòa. Đây là sự khác
nhau của hai bản, bởi vì hai chùa truyền thừa có sự tách biệt, sau lập
làm hai phái là Từ Hiếu và Tây Thiên, nhưng có cùng một cội tại hai tổ
đình là Báo Quốc và Từ Hiếu.
Bản Lịch truyện tổ đồ, theo như ý khởi đầu của nó,
là ghi chép sự truyền thừa của pháp phái Thiên Đồng. Trong pháp phái đó,
có hai nhánh phát triển mạnh tại Đàng Trong, Việt Nam. Nhánh thứ nhất
từ Thiền sư Đạo Mân - Mộc Trần truyền cho Bản Quả - Khoáng Viên, Viên
truyền cho Nguyên Thiều - Thọ Tông. Từ Thiền sư Nguyên Thiều có sự phân
tách thành các chi phái nhỏ. Đệ tử của Thiền sư Nguyên Thiều có sự
truyền thừa đến ngày nay là các Thiền sư như Minh Lượng - Nguyệt Ân,
Minh Vật - Nhất Tri, Minh Giác - Kỳ Phương, Minh Dung - Pháp Thông. Chỉ
có mình ngài Minh Hải - Pháp Bảo là tự tục kệ truyền thừa tạo nên một
pháp phái mới là phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Phái thứ hai bắt đầu từ Thiền sư Tuyết Giậu Chơn Phát truyền cho Đại
Sa Như Trường (hoặc Siêu Trường), truyền cho ngài Minh Hoằng Tử Dung
chùa Từ Đàm, truyền cho ngài Liễu Quán chùa Thiền Tôn. Ngài Liễu Quán
lại tục kệ truyền thừa và hình thành nên phái Lâm Tế Liễu Quán phát
triển mạnh ở Trung Nam. Bộ sách Lịch truyện tổ đồ của
hai chùa Thiền Tôn và Thiên Hòa đều ghi chép về sự truyền thừa của Liễu
Quán pháp phái. Do đó, đây là một tư liệu quí để nghiên cứu truyền thừa
cùng hành trạng của chư tổ tại Huế mà chưa được mọi người biết nhiều.
Tóm lại, Lịch truyện tổ đồ là một tư liệu Hán Nôm
quí được trân tàng tại các chùa xưa. Mỗi khi nói đến việc truyền thừa
tại các chùa, người ta mang ra xem thử mình thuộc dòng phái nào, biết
được gốc tích tông phái, hiểu rõ hành trạng các tổ sư và xem hình ảnh
chư tổ được sách phác họa. Chùa Thiên Hòa tuy là một ngôi chùa nhỏ trên
vùng núi Dương Xuân xưa, nhưng vẫn còn giữ khá nhiều tư liệu Hán Nôm
Phật giáo, các ván khắc sớ điệp, các bản in áo giấy thờ cúng trong các
dịp lễ dân gian. Cách thờ tự, hệ thống tượng, pháp khí đều có một giá
trị nhất định. Trong tủ sách còn giữ khá nhiều các bản kinh, sách Hán
Nôm và quyển Lịch truyện tổ đồ mà chúng tôi đã giới
thiệu vài dòng về văn bản. Sách ghi chép rõ ba vị Thiền sư Hải Thiệu,
Huệ Minh và Chơn Nguyên, phương pháp viết tiểu sử có phần tiến bộ hơn
các tiểu truyện do Đạo Mân, Như Như Đạo Nhân cung cấp. Do đó, chúng tôi
xem đây là một tư liệu đáng nghiên cứu khi bắt tay tìm hiểu Phật Giáo
thiền tông tại Huế.
Tài liệu tham khảo:
- Lịch truyện tổ đồ1. , bản chép được lưu trữ tại chùa Thiên Hòa.
- Lịch truyện tổ đồ2. , bản chép, chúng tôi sử dụng bản photo tại chùa Từ Đàm.
- Hàm Long sơn chí3. , do Điềm Tịnh cư sĩ và Như Như Đạo Nhân biên soạn, bản chép tay.
- Diệm khẩu du- già tập yếu thí
Đồng Dưỡng