Thế nhưng, một ngàn năm đó chỉ
như mơ hồ trên sách vở, hoặc ảo ảnh giữa hư vô kể từ Minh Vương Lý Thái
Tổ di đô từ Hoa Lư về thành Đại La năm 1010 ( Thuận Thiên thứ 1, vào
tháng 7 ), mà di tích được khám phá trên một vùng rộng lớn tại thủ đô Hà
nội vẫn còn là minh chứng thật cho một huyền sử xa vời!
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam suốt
chiêu dài trên bốn ngàn năm danh sử, những vị vua từng có công dựng xây
và chấn hưng đất nước là chuyện bình thường, cũng như có những đời vua
làm băng hoại tổ quốc và trụy lạc cá nhân cũng không thiếu, thế nhưng,
Lý Công Uẩn, mở đầu cho những triều đại kế tục, suốt hơn bốn thế kỷ đem
lại thái bình cho nhân dân và thống nhất giang san một mối, tạo sự kiêng
nể cho ngoại xâm, dẹp tan ý đồ bá quyền của nước lớn và bình định lân
bang bằng ngoại giao, bằng uy tín, bằng chiến lược và kể cả sức mạnh
quân sự. Phải nói hai đời Lý và Trần thực sự là thời đại vàng son của
một dân tộc, vừa củng cố an ninh quốc nội, vừa phát triển ngoại giao,
vừa hưng thịnh kinh tế, vừa ổn cố chính trị, và quan trọng nhất đã thống
nhất lòng dân bằng Tam giáo mà Đạo Phật là chủ lực tạo một tiềm lực
đáng kinh ngạc trong những lúc đất nước hưng thịnh, ngoại trừ có những
hôn quân phế truất Phật giáo thì những lúc đó, đất nước lâm vào suy vong
như lịch sử đã minh chứng.
Như lịch sử đã ghi nhận, Lý Công Uẩn vốn
xuất thân từ nhà chùa, con nuôi của Lý Khánh Vân và là đệ tử truyền
thừa của Thiền sư Vạn Hạnh. Từ bé đã không cha, mang một lý lịch huyền
thoại, nhưng cốt cách sinh hoạt thường nhật của một chú bé ở chùa chứng
tỏ một con người không mang tính huyền thoại để bước vào đời nhận lãnh
trách nhiệm gánh vác giang san trên đôi vai một Phật tử. Triều đại Lê
Long Đỉnh, Lý Công Uẩn làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Trong hàng quan tướng
tứ trụ vương triều thì Lý công Uẩn tỏ ra nhân hậu, nhiệt tình, trung
thành, được lòng quan triều và tín nhiệm của Lê ngọa Triều. Tuy Lê Long
Đỉnh tỏ ra hư hỏng, tha hóa và độc ác đối với lê dân cũng như thô bạo
đối với sư sãi, giải khuây bằng sự chết chóc của tội nhân, tham dâm vô
độ, giết anh cướp ngôi (1)…đã làm mất lòng dân cực độ, thế mà Lý Công
Uẩn vẫn tròn đạo nghĩa vua tôi, chính vì thế mà Lý Công Uẩn được Lê Long
Đỉnh rất tin tưởng. Lê Long Đỉnh băng hà lúc 24 tuổi, con còn quá nhỏ.
Đào Cam Mộc và quần thần tôn Lý Công Uẩn lến ngôi vua, ứng với điềm
lành báo trước cây gạo ở chùa làng Diên Uẩn, (Cổ Pháp) bị sét đánh mà
Vạn Hạnh tiên đoán nhà Lê suy Lý Thịnh; Cho dù Lý Công Uần được Đào Cam
Mộc và Vạn Hạnh thiền sư hậu thuẩn, nhưng không có thần khí nhân từ,
chơn mạng đế vương được lòng thiên hạ thì cũng khó mà cửu trụ.
Lý Công Uẩn lên ngôi chưa tới 40 tuổi,
thế mà có tầm nhìn của một lãnh tụ thiên tài; Hoa Lư là mãnh đất từng
chống ngoại xâm cũng như dẹp loạn sứ quân của nhị vị Tiên đế Đinh- Lê,
có nghĩa Hoa Lư chỉ là vùng tử thủ, chứ không thể là địa công; vùng
chiến lược quân sự mà không là chiến lược kinh tế và phát triển cơ đồ.
Từ xưa, các triều đại từng có việc dời đô, nhưng việc di đô lại thể hiện
tính dân chủ trong thời phong kiến như Lý Thái Tổ:
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô[7], nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô[8], há phải các vua thời Tam Đại[9];
ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn
ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới
theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài,
phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê
lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương
Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn
ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể
không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[10], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ
phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng
này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không
khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp
nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993
Chính vì thế mà quan dân đều đồng thuận:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi nhận:[6]
Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ
lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho
dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo".
Vua cả mừng
Việc dời đô là hệ trọng, sau khi kế
nghiệp, vua tức tốc đi tìm địa lợi, vừa ổn cố cơ đồ, vừa phát triển kinh
tế dân sinh; Sau khi an cư, Lý Thái Tổ đã triệt để áp dụng Phật giáo
vào đời sống xã hội, đây là một sách lược tâm lý chính trị để đoàn kết
lòng dân:
Tôn giáo
Triều Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nên những người đi tu, lấy tiền kho ra để xây chùa, đúc chuông được nhà vua trọng đãi. Tháng 6 năm Thuận Thiên thứ 9 (Mậu Ngọ 1018),[7] Lý Thái Tổ sai quan là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nhà Tống (Trung Quốc) thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại
Chính vì thế mà nho gia bất mãn:
: Sử gia Lê Văn Hưu phê bình trong Đại Việt sử ký:
“
|
Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, đàn xã
tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu
chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn nghìn người ở Kinh sư, thế thì
tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể.
Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há
chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm
việc phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp, tự mình cần kiệm, còn lo cho con
cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời
sau xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ Phật, lộng lẫy
hơn cung vua. Rồi người dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc,
bỏ sản nghiệp, trốn thân thích, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong
nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy?
|
”
|
—sách này không còn, dẫn lại theo Đại Việt sử ký toàn thư.[13]
|
|
Chiến Lược Tôn Giáo: Việc
di đô là tầm nhìn chiến lược, nhưng bảo vệ và phát triển chiến lược
được lâu bền, không thể duy ý chí, hay thuần túy pháp quy; Lý Thái Tổ
đã biết áp dụng tinh hoa Đạo Phật vào xã hội, làm chất keo sơn đoàn kết
quần chúng; Kinh nghiệm thể chế phong kiến áp dụng pháp quyền cộng thêm
bạo lực của Lê Long Đỉnh. Quần chúng tuy sợ sệt nhưng ngấm ngầm bất
mãn. Bề mặt xã hội được trấn áp bởi bạo lực nhưng tảng băng ngầm chứa
đựng sự rạn nứt trong lòng dân. Lý Thái Tổ khác với Constantinope, áp
dụng tôn giáo vào xã hội bằng lòng nhân và đạo đức tôn giáo, mục đích
duy trì nền độc lập tổ quốc và ổn định sinh hoạt xã hội; Trong khi đó,
Constantinope dùng tôn giáo như lưỡi gươm và cây thập giá để bành trướng
vương quyền, mở mang bờ cỏi, tạo bao chết chóc, máu đổ đầu rơi.
Một tinh thần bất bạo động, khoan dung
của Phật giáo đã tránh được bao cuộc xô xát đẫm máu vì tranh giành ảnh
hưởng giữa tôn giáo với tôn giáo, đồng thời, với tinh thần đó, cũng đã
kích thích tăng trưởng tính ổn định trong mọi xã hội mà Phật giáo là chủ
đạo. Những dân tộc nhạy bén về dân trí, Đạo Phật cũng giúp phát triển
những tinh hoa văn hóa, nghệ thuật, ngay cả khoa học và các bộ môn tâm
lý.
Tuy nhiên, nếu Phật giáo được hỗ trợ để
phát triển thuần túy về xã hội và hình thức tín ngưỡng, dễ đưa đến sự
lạm phát và lạm dụng mà Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Hoa…những
trang giáo sử cũng từng bị hoen ố, đến độ Quang Trung phải ra lệnh thanh
lý tu sĩ, có những triều đại phải cấp độ điệp và kiểm tra nội điển để
kiểm soát tình trạng thừa cung thiếu cầu!
Việc tạo lập Tam bảo và tiếp Tăng độ
chúng không phải là thừa, nhưng đó cũng không là cần thiết nếu lượng số
tu sĩ quá mức cần thiết mà nội lực hành trì không được triển khai, và
quần chúng chỉ biết lễ lạy mà không hiểu biết giáo lý để áp dụng vào
cuộc sống thường nhật. Một số sai lầm của những nhà cầm quyền trong quá
khứ ở những nước Đạo Phật là quốc giáo, đã yểm trợ hình thức mà không
chú trọng nội dung, thay vì làm lợi cho xã hội, biến thành tệ hại cho
đất nước, và số tu sĩ gần bằng phân nửa dân số đó, là gánh nặng kinh tế
cho quốc dân. Tuy nhiên, Đài Loan, Nam Triều Tiên ngày nay, tuy Phật
giáo không là chủ đạo của một dân tộc, nhưng biết chuyển mình hợp cách
với trào lưu tiến hóa xã hội. Các tu sĩ đã xã hội hóa hoạt động pháp sự
như Phật giáo Viên của Nam Triều Tiên và hội Từ Tế Đài Loan do ni sư
Cheng yen khởi lập vào ngày 14/5/1966, đã có nhiều chi nhánh trên thế
giới vừa giúp xã hội, trên phương diện từ thiện, y tế, giải quyết cuộc
sống cho quần chúng Phật tử và hỗ trợ viện phí cho bệnh nhân nghèo! So
với dân số Nam Triều Tiên là 45.182.000 người, Phật giáo chiếm 25,3%;
Đài Loan 23 triệu dân, Phật giáo chỉ 35.1% thì Việt Nam 86 triệu dân, đã
có 45 triệu tín đồ, tức 55%, thế mà mãi đến ngày nay, về mặt nổi, chùa
am phát triển gần 15 ngàn, tu sĩ có 44.500 vị, vẫn chưa có một cơ sở
xã hội mang tầm vóc quốc gia chứ chưa nói đến quốc tế như Đài Loan và
Nam Triều Tiên. Tuy vậy, một bộ phận khác của Phật giáo, Tín đồ Phật
giáo Hòa Hảo đã đóng góp thiết thực cho xã hội bằng những phần cơm chay
miễn phí mỗi ngày lên đến 10 ngàn suất ăn cho các bệnh nhân nằm viện từ
TP HCM đến các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Một vài quán chay từ thiện miễn
phí trong thành phố do lòng hảo tâm của những thiện tín giúp đỡ người
lao động có thu nhập thấp.
Những cố gắng trên đây do tự phát của
quần chúng. Phật giáo Việt Nam tuy thống nhất một khối, nhưng vì cơ chế
chưa thông thoáng, bản thân Giáo hội chưa thể hiện tính chủ động, nên
tầm vóc hoạt động còn hạn chế; Phật giáo là cội cổ thụ Bồ Đề, cần một
không gian thoáng đạt và gốc rễ tự bám sâu vào lòng đất mẹ, có như thế
mới phủ mát cho xã hội; ngược lại xem Phật giáo là loại bonsai làm đẹp
hoa kiểng, tự thân nó bị tiêu hao sinh lực, chẳng những không thành công
của loại cây kiểng vì bị sâu mọt đục khoét, mà còn chướng ngại, vướng
bận cho cảnh trí chung quanh.
Tinh Thần vô ngã: Trên
thế giới không thiếu những vị lãnh đạo đất nước tài ba, sau chiến tranh
, một thời gian ngắn đã đưa đất nước từ kiệt quệ lên hàng phát triển
quốc tế mà mọi quyền lợi của người dân vẫn không bị hạn chế. Sau hai
quả bom nguyên tử tàn phá Hiroshima và Nagasaki, trong vòng 30 năm, các
nhà lãnh đạo Nhật và Minh Trị Thiên Hoàng đã đưa nước Nhật đứng hàng thứ
nhì trong các các quốc gia phát triển. Sau thế chiến thứ hai và sau
cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa kỳ, không những đất nước cờ hoa giải phóng
được chế độ nô lệ mà còn là đất nước tuyên dương dân chủ qua bản tuyên
ngôn nhân quyền. Suốt thế kỷ 17 – 18, Mỹ luôn trong tình trạng tranh
chấp chiến tranh, thế mà, một đất nước non trẻ thoát thai từ Anh, không
lâu sau đó, nền dân chủ làm cơ sở cho sự phát triển vượt bực, dẫn đầu
thế giới về nhiều mặt tiến bộ, nhất là khoa học kỷ thuật.
Tuy nhiên, tùy tình hình địa lý và thời
cuộc mà giới lãnh đạo một số quốc gia đã giữ vững độc lập, tuy không
phát triển nhiều. Và dĩ nhiên cũng có những lãnh đạo yếu kém trong một
giai đoạn của một quốc gia nào đó. Riêng những nước chịu ảnh hưởng sâu
đậm từ Phật giáo, đã có một thời sản sanh ra những minh quân biết áp
dụng đạo Phật vào pháp trị, vừa chấn hưng Phật giáo, vừa thạnh trị quốc
gia. Một Asoka đại đế của Ấn Độ, một Trần Nhân Tông và các đời vua Lý
Trần tại Việt Nam. Người ta tự hỏi lý do nào những quốc gia chịu ảnh
hưởng Phật giáo có những nét đặc thù về sự đoàn kết, tính tự chủ, tinh
thần độc lập và lòng ái quốc?
Một Thái tử Si Đạt Đa từ khước vương vị
để truy cầu chân lý cho nhân sinh thì cũng đã có một Trần Nhân Tông Việt
Nam nhường ngôi vua cho con để làm nhà sư hạnh đầu đà, vừa phát triển
Phật giáo vừa mở mang bờ cỏi và bảo vệ tổ quốc
Thế thì cũng không lạ một Lý Công Uẩn,
xuất thân từ nhà chùa, áp dụng Phật giáo vào quản trị đất nước để đoàn
kết toàn dân. Một vị vua không tham cầu vương vị, không hưởng thụ vật
dục, xem phú quý vinh hoa như cỏ rác, biết hy sinh cho dân cho nước thì
lòng dân nào không hậu thuẩn cho vua? Mọi người dân được tôn quý và
quyền lợi không bị xâm phạm, xem tình tự dân tộc như ruột thịt một nhà,
không sở hữu những báu vật bất chánh, không làm giàu trên xương máu kẻ
khác vì hiểu rõ luật Nhân quả công bằng. Đượm nhuần tinh thần Vô Ngã vị
tha của đạo Phật thì xã hội bấy giờ không lượm của rơi, nhà không đóng
cửa…Từ vua quan đến thảo dân đều hiểu đời là giả tạm. Quyền lợi tập thể,
quyền lợi quốc gia là quyền lợi chung cho mọi cá nhân, họ sẳn sàng xả
kỷ hy sinh cho đất nước cho dân tộc. Một tinh thần tập thể vô ngã như
thế, Phật giáo cung ứng cho xã hội những Bồ tát hạnh và sản sanh cho đất
nước những minh vương như Lý công Uẩn, mở đầu cho những thời đại thạnh
trị cho đất nước là chuyện dễ hiểu.
Lịch sử đã nói nhiều đến những chiến
công hiển hách của dân tộc chống ngoại xâm. Phạt Tống bình Chiêm; Quân
Mông cổ từng làm cỏ những đất nước vó ngựa đi qua, quân Nguyên và những
triều đại ấp ủ tham vọng lấn chiếm phương Nam đều bị các triều đại Lý
Trần cho chui vào ống đồng thoát thân hoặc phơi thây nơi trận địa; thế
nhưng, cũng với tinh thần dĩ hòa vi quý của Đạo Phật, sau khi đánh bại
quân xâm lược, vua quan nước ta vẫn triều cống ngoại giao để vững an bờ
cỏi. Tuy triều cống, nhưng cha ông ta chưa hề để mất một tấc đất. Lê
Thánh Tôn ( 1460-1497), vị anh quân tài giỏi của Đại Việt vào cuối thế
kỷ 15 đã dạy ‘ Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của đất nước ‘
Tuy hậu Lê như Thánh Tôn ưu đãi Nho gia,
lập thể chế phong kiến giúp cho xã tắc có nề nếp quy củ, nhưng tinh
thần Phật giáo đã ngấm vào xương tủy suốt nhiều thế kỷ trước đó trong
mọi tầng lớp, vì thế, lòng ái quốc và đức hy sinh cho đại cuộc luôn nuôi
dưỡng dân tộc; Đến ngày nay sau hơn 20 thế kỷ, tinh thần theo giáo lý
Vô Thường- giả tạm- nhân quả- vị tha vẫn bàng bạc trong dân ta. Ai đó có
thể không bao giờ đi chùa, chưa bao giờ biết đến giáo lý nhà Phật,
nhưng vẫn có thể nói: kiếp trước vụng tu, nhân nào quả đó, oan gia
nghiệp báo…Chính vì thế, lòng vị tha, thương người cứu vật sẵn có trong
mọi người, biến dân tộc thành một đất nước hiếu hòa độ lượng.
Nếu chỉ có Nho giáo thì xã hội đưa vào
giai cấp phong kiến bị trị bởi tinh thần Tam cương ngũ thường, Tam tùng
tứ đức. Xã hội bị ràng buộc trong một khuôn khổ cố định, chỉ biết chấp
hành; Đạo gia chỉ thích hợp với tầng số tâm linh vô vi siêu nhiên, xem
như thụ động trong một xã hội hoạt náo.Nho giáo và Đạo gia là hai thể
trạng Nhân giáo và Tiên giáo, khó mà dung hòa hai trong một; Phật giáo
mang đủ tính chất nhân thừa thiên thừa, ngay cả Phật thừa, có thể dung
dị những cá biệt trong cuộc sống một cách linh động hài hòa. Tinh thần
hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn đã giúp hành giả thỏng tay
vào chợ, lăn xả hy sinh mà không cần lợi dưỡng, không sợ nhiễm ô. Đó là
một trong 10 điều tâm niệm của nhà Phật: Thi ân bất cầu báo.
Tinh thần cộng đồng và tính dân chủ có
rất sớm trong giáo đoàn thời Phật còn hiện tiền, để bảo tồn tính cộng
đồng mà Phật dạy Lục hòa; để giải quyết phạm quy trong đoàn thể tu sĩ,
Phật dạy Yết ma, tôn trọng ý kiến tập thể. Những sinh hoạt như thế nói
lên tính vô ngã vị tha, không xây dựng và hành sự trên nền tảng cá nhân
mà là tập thể cộng đồng, đó là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách của
xã hội dân chủ ngày nay!
Ngay cả cách bố thí Ba la Mật cũng nói
lên tính vố chấp, không thấy có người bố thí và kẻ được bố thí. Những
tinh thần vô ngã vị tha như thế, Phật giáo đã giúp cho Lý Trần xuyên
suốt 4 thế kỷ hiên ngang trước họa xâm, hy sinh cá nhân và đoàn kết
tương trợ trong xã hội. Một đất nước mạnh không phải có nhiều vũ khí tối
tân hay kinh tế dồi dào, mà là lòng dân được thống nhất một khối. Hội
nghị Dziên Hồng đã minh chứng châu chấu đá xe!
Xuất thân từ nhà chùa, Lý Công Uẩn đã
học được tính dân chủ và tinh thần tự giác, giác tha. Sinh khí nhà Phật
đã phủ trùm trong cung viện đến xã tắc thứ dân; Xây dựng tinh thần Phật
giáo bàng bạc trong dân chúng là đã xây dựng được bức tường thành vững
chắc cho một chế độ lẫn chế ngự gót chân xâm lược từ mọi phía. Tinh thần
Phật giáo nghiễm nhiên là chính sách thân dân, chính vì thế trong cơ
quan, công ty xí nghiệp, trong quân ngũ, những Phật tử chân chánh luôn
tạo được sự tôn kính với đồng nghiệp, niềm tin với kẻ trên và thân thiện
với người dưới.
Một đất nước giàu sang vì kinh tế, vững
mạnh phải là lòng dân. Lý Thái Tổ không dùng uy quyền để xây dựng thể
chế, không dùng bạo lực để giáo dục nhân sinh. Cả Lý lẫn Trần đều lấy
Đạo Phật làm nền tảng cho đất nước vững mạnh về ngoại giao, phồn vinh
trong kinh tế và tình thương đối với muôn dân như giảm thuế. Nhà Lý mở
đầu cho kế sách chiến lược xây dựng tổ quốc bằng tâm linh để những thế
kỷ sau đó phát triển vững mạnh, từng làm cho kẻ nuôi mộng bá quyền phải
kiêng dè trước tinh thần uy vũ bất năng khuất của một dân tộc. Đồng
thời, Lý Thái Tổ đã củng cố kỷ cương quốc pháp mà thời gian dài tao loạn
đã không còn tồn tại .
Lý Thái Tổ và các vua đời Trần đã biết
kích thích cho cây Bồ Đề phát triển và phủ bóng tự nhiên trong lòng dân
tộc. Tuy nhiên, nếu dùng đạo Phật như một khí cụ mưu đồ chính trị, tự
thân Phật giáo bị tàn lụn mà ngay cả thế lực lạm dụng Phật giáo cũng bị
một kết quả tương phản bởi ý đồ thiếu trong sáng và thiếu tôn kính. Tuy
sách sử chỉ nêu việc xây chùa đúc chuông tạo tượng của Lý Thái Tổ mà
Nho gia từng phê phán, đố kỵ, nhưng không nói rõ sự phát triển của đạo
Phật thời bấy giờ về mặt tâm linh, sở chứng như thế nào. Nhưng chắc chắn
Phật giáo đương thời không thể thiếu vắng nội lực mà có thể làm linh
hồn cho một dân tộc. Bằng chứng một Vạn Hạnh, một Lý Khánh Vân, một
khuông Việt…đủ nói lên khả năng tâm linh của cộng đồng tu sĩ lúc bấy
giờ để Phật giáo cắm sâu vào xã hội quần sanh, vực một đất nước thoát
khỏi nội loạn ngoại xâm mà giặc Phương Bắc phải xem tổ quốc Việt Nam
ngang hàng với đế vương Hán tộc.
Lý Thái Tổ không chỉ có óc chiến lược về
địa hình khi dời đô về Đại La, (Thăng Long nằm giữa sông Nhĩ Hà và Tô
Lịch, có cả Kim Ngưu, sông Nhuệ và sông Cà Lồ, Nhất là sông Hồng đã đem
phù sa bồi đắp cho ruộng đồng màu mỡ và nới rộng vùng châu thổ); mà còn
mưu lược về chính trị khi lấy Phật giáo làm sinh lực cho dân tộc. Người
ta không còn lạ gì khi đặt câu hỏi: Tại sao Phật giáo thịnh, dân tộc
thịnh, Phật giáo suy thì tổ quốc nguy!!!
Hãy tạo điều kiện cho cây Bồ đề phát
triển tự nhiên, đừng biến cây Bồ đề theo dạng bonsai một cách vô ích. Lý
Thái tổ nói riêng và các vua chúa LÝ Trần nói chung đã làm được việc
đó, một bài học lịch sử cho dân tộc mãi mãi về sau.
(1) nhân vật lịch sử VN trang 471