Nước ta từ sau ngày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 -
1613) vào trấn thủ đất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng
cai trị riêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sông
Danh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi là Ðàng Trong
và Ðàng Ngoài.
Tuy nhiên, chế độ cầm quyền dù có khác nhau mà lòng dân vẫn là
một. Dân Ðàng Trong hay dân Ðàng ngoài vẫn coi nước Việt Nam là
một, phong tục tập quán, văn hóa, tín ngưỡng vẫn giống nhau. Dân
Ðàng Ngoài tin Phật giáo, dân Ðàng Trong cũng tin Phật giáo, mặc
dù Phật giáo lúc này đã suy vi rất nhiều so với Phật giáo thời Lý
Trần. Song do có lòng tin đó, mà Ðàng Trong hay Ðàng Ngoài vẫn
có các vị Thiền sư kể cả các vị Thiền sư Trung Quốc qua tiếp tục
truyền bá đạo Thiền thuộc phái Lâm Tế và Tào Ðộng.
Gặp lúc ở Tàu nhà Mãn Thanh lên thay nhà Minh, những Tăng sĩ
Tàu không thần phục nhà Thanh mới bỏ sang Việt Nam. Người vào đất
Bắc như Chuyết Công Hòa thượng, Minh Lương Hòa thượng, người vào
đất Nam như Tế Viên Hòa thượng, Giác Phong Lão tổ, Thọ Tôn
Nguyên Thiều, Minh Hoằng Tử Dung, Thạch Liêm Ðại Sán v.v... sang ở
vùng Thuận Hóa và Bình Ðịnh. Trong khoảng thời gian này, ở Ðàng
Trong có một vị Thiền sư Việt Nam, đạo đức cao siêu, tâm quang
sáng rực, được tôn làm Tổ, đó là Hòa thượng Liễu Quán mà cuộc đời
của Ngài thật là một tấm gương tốt chói lọi của một trong những
vị Sư thông thái nhất xứ này.
Tổ Liễu Quán mở pháp môn ở núi Thiên Thai thuộc Thuận Hóa.
Ngài đặt bài kệ: "Thật Tế Ðại Ðạo, Tánh Hải Thanh Trừng v.v..."
để làm pháp hệ truyền thừa mãi đến này vẫn còn tiếp nối. Hầu hết
các chùa ở vùng Trung và Nam Việt đều thuộc phái Thiền Lâm Tế
này, trong khi việc truyền bá của các vị Thiền sư Trung Quốc
không mấy rộng rãi và liên tục cho bằng. Tổ Liễu Quán thật đã có
một vị trí sáng chói trong lịch sử Phật giáo cuối đời Hậu Lê. Vậy
ở đây ta hãy tìm hiểu rõ hơn về ngài.
Ở khoảng ba cây số về phía Nam đàn Nam giao có một ngôi tháp
đến nay còn được giữ gìn hoàn hảo đẹp đẽ ở trên một thửa
đất có tường thành bao quanh, có tam cấp và hồ sen. Ðó là ngôi
tháp của Tổ Liễu Quán. Có thể nói đây là ngôi tháp hùng vĩ, cổ
kính, uy nghiêm nhất từ xưa còn lại ở miền Trung và Nam Việt.
Khuôn viên thấp gồm có kiến trúc Pháp tường thành, nền hồ vôi,
rộng vào khoảng 70 mét vuông, nếu kể toàn diện tích đất chung
quanh thì có thể gần một héc-ta, trong đó có phần trồng thông và
xoài.
Tháp có hai lớp tường thành bằng đá bao quanh. Lớp trong hình
bát giác cao độ 0m60 ở gần tháp. Lớp ngoài hình tứ giác cao độ
1m80, dày 1m. trước tháp có tam cấp danh dự ngang 4 mét gồm 10
bậc. Ở ngoài nhìn trên cổng tường vào tháp có biển đề chữ: "Ðàm
hoa lạc khứ hữu du hương" (Hoa Ðàm rụng hương thơm vẫn còn). Hai
bên có hai câu đối: "Bửu đạt trường minh bất đoạn môn tiền lưu
lục thủy; Pháp thân độc lộ y nhiên tạo lý khán thanh sơn" (Tiếng
linh báu ngân dài cùng dòng nước lục trước cửa chảy hoài không
dứt; Pháp thân lộng y nhiên bất động ngắm núi xanh).
Phía trong tường thành là ngôi tháp dựng ở chính giữa, hình
bát giác hồ vôi, cao 7 tầng độ 6 mét, mặt trước có bia đá áp sát
vào và mang các dòng chữ: bên trên: "Vô lượng quang", dòng giữa
bia: "Sắc tú Chánh giác Viên ngộ Liễu Quán lão Hòa thượng chi
tháp". Hai bên có hai câu đối: "Bỗng át chân phong gia kế thuật;
Tân lương mỹ hóa quốc bao sùng" (Chân phong của phép Thiền đánh
hét được ngài kế thừa truyền thuật; Ðức hòa tốt đẹp của bậc Thầy
hướng đạo được cả nước khen ngợi tôn sùng).
Áp sát mặt trong tường thành bên trái của tháp có tấm bi đá sa
thạch cao 1m, rộng 0m60, văn bia gồm gần 1.500 chữ Hán, do người
cháu trong đạo của Tổ Liễu Quán, bấy giờ đang làm Sư ở chùa Tang
Liên bên Trung Quốc soạn và dựng năm thứ 9 niên hiệu Cảnh Hưng
(1748, vua Lê Hiển Tôn), đúng 6 năm sau ngày Tổ Liễu Quán viên
tịch.
Chính nội dung tấm bia này là một tài liệu đầy đủ nhất còn lại
cho ta biết rõ công hạnh tu chứng và hóa đạo của Tổ Liễu Quán.
Dưới đây là bản dịch các điểm chính tấm bia ấy: "Ðặc điểm căn
bản của Phật giáo chúng ta là gì? - Theo Phật giáo, con người
không phải từ cửa tử sanh ra, cũng phải chết đi là đi vào cửa tử.
Thế nên người xưa sống trong rừng sâu hang động, chỉ ăn ngủ sơ
sài, chẳng có gì quan trọng đáng lo nghĩ hơn là vấn đề sống và
chết.
Tìm được một người chấp nhận hy sinh cho đạo pháp, nhất là lúc
Phật giáo đang suy đồi như Hòa thượng Liễu Quán của chúng ta
thật là điều hy hữu.
Ngài Quán làng Bạc Mã, huyện Ðồng xuân phủ Phú Yên, họ Lê,
pháp danh Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán. Tu học từ thuở nhỏ, ngài tỏ
ra thông minh khí tiết hơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên sáu,
theo ý nguyện của ngài, thân phụ ngài đã gởi ngài đến chùa Hội
Tôn thụ giáo với Tế Viên Hòa thượng. Bảy năm sau Tế Viên Hòa
thượng tịch, Ngài ra Huế vào chùa Hàm Long (tức chùa Bảo Quốc
ngày nay) thụ học với Giác Phong lão tổ.
Năm Tân tị (1691), sau khi xuống tóc được một năm, ngài được
gọi về làng cũ để giúp đỡ phụ thân trong lúc già yếu. Nhà nghèo
ngài phải đi hái củi bán lấy tiền lo thuốc thang. Bốn năm sau phụ
thân qua đời vào năm Aát hợi (1695) ngài lại trở ra Huế chính thức
thụ giới Sa-di với Thạch Liêm Ðại Sán Hòa thượng. Năm Ðinh sửu (1697)
ngài tiếp tục thụ giới Cụ túc với Từ Lâm lão Hòa thượng.
Năm Kỹ mão (1699) ngài đi khắp Tòng Lâm thăm viếng nhiều chùa
để học hỏi đạo lý, và quyết định hiến thân cho đời sống đạo,
chẳng quản đạm bạc gian lao. Từ đó ngài tinh chuyên tu tập.
Năm Nhâm ngọ (1702) ngài đến Long Sơn đầu sư với Tử Dung Hòa
thượng (người sáng lập Ấn Tôn Từ Ðàm hiện nay), một vị Hòa thượng
có tiếng thông thái khéo dạy người niệm Phật tham Thiền của thời
này.
Trước khi chấp nhận ngài làm học trò, Hòa thượng Tử Dung đã
thử nhiều lần và bắt ngài giải thích câu sau đây: "Muôn pháp quy
về một, một về đâu?". Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không ra câu giải
đáp và đã thất vọng.
Một hôm nhân đọc Truyền Ðăng Lục, ngài gặp câu: "Chỉ vật
truyền tâm, nhân bất hội xứ" (Chỉ vật truyền tâm, chỗ mà người
ngoại cuộc không hiểu được), bỗng nhiên ngài thấy đã tìm ra câu
giải đáp mà thầy mình đã đặt ra, nhưng vì đường sá xa cách, không
thể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được.
Năm Mậu tý (1708) ngài đến Long Sơn (Huế) để đệ trình kết quả
với câu: "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ". Hòa thượng Tử
Dung lại dạy câu: "Ðứng ở mé bờ cao vút buông tay, tự mình chịu
lấy, chết rồi sống lại, bấy giờ không ai có thể dối người" (Huyền
nhai tán thủ, tự khẳng thừa đương, tuyệt hậu tái tô, khi quân
bất đắc). Ngài vỗ tay cười lớn tiếng. Hòa thượng nói: "Không phải
vậy đâu". Ngài liền đọc: "Xứng chùy nguyên thị thiết". (Cái dùi
nguyên là sắt). Hòa thượng đáp: "Cũng không phải vậy đâu".
Hôm sau Hòa thượng lại tiếp tục thử ngài bằng câu: "Công án
ngày qua chưa giải đáp xong, hãy nói lại xem?". ngài liền đọc hai
câu: Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi. Hòa thượng tán
thán.
Năm Nhâm thìn (1712) khi Hòa thượng Tử Dung vào Quảng Nam để
làm lễ Toàn Viện (?) ngài Liễu Quán trình Hòa thượng bài kệ dục
Phật (tắm Phật). Xem bài kệ, Hòa thượng đặt cho ngài câu hỏi sau
đây: "Tổ Tổ truyền cho nhau, Phật Phật trao cho nhau, chưa rõ
truyền trao cái gì ấy?". Ngài Liễu Quán đáp: "Măng đá mọc chồi
dài một trượng, phủ phất lông rùa nặng ba cân". Hòa thượng Tử
Dung tiếp hỏi: "Thuyền trượt trên núi cao, ngựa chạy dưới đáy
biển" nghĩa là gì? Ngài đáp: "Trâu đất gãy sừng rống thâu đêm,
đàn cầm không giây gảy suốt ngày".
Rồi ngài chép lại tất cả những câu đối đáp trình ngay lên Hòa
thượng Tử Dung và được Hòa thượng hoàn toàn thừa nhận.
Ngài là người có trí thông minh phi thường, chí nguyện siêu việt.
Năm Nhâm dần (1722) ngài về trụ ở Tổ đình Thiền Tôn - Huế.
Trong các năm Quý sửu. Giáp dần, Ất mão (1733, 1734, 1735) ngài
mở bốn đại giới đàn theo lời thỉnh cầu của các hàng cư sĩ, xuất
gia và các quan viên hộ pháp. Năm Canh thân (1740) sau khi truyền
giới đàn Long Hoa, ngài trở lại tổ đình.
Ðương thời Hiếu Minh vương Nguyễn Phúc Chu cảm phục đạo đức và
danh tiếng của ngài, triệu ngài vào cung, nhưng ngài muốn giữ sự
tự tại ở chốn lầm tuyền nên đã từ tạ lời thỉnh mà không đến.
Mùa xuân năm Nhâm tuất (1742) ngài lại mở giới đàn tại chùa
Viên Thông. Vào cuối thu, tháng 9 năm ấy (tháng 10 năm 1742) ngài
lâm bịnh nhưng không có dấu hiệu gì trầm trọng. Tháng 10 năm ấy,
ngài họp các đệ tử nói: "Tôi sẽ ra đi, sứ mạng của tôi ở đời này đã
xong". Các đệ tử khóc òa. Ngài khuyên bảo: "Tại sao các vị khóc?
Chư Phật còn nhập Niết-bàn. Tôi cũng vậy, tôi đến đi rõ ràng, về
có nơi chốn. Xin đừng buồn rầu, hãy cố gắng tinh tấn hơn lên".
Tháng 11 âm lịch năm ấy, mấy ngày trước khi mất, ngài ngồi dậy tự tay viết bốn câu:
"Ngoài bảy mươi năm trong thế giới
Không không sắc sắc thấy dung thông
Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ
Nào phải ân cần hỏi tổ tông".
Viết xong, ngài bảo các đệ tử: "Các vị xem này, tôi đến với
cõi đời này giản dị biết bao nhiêu. Tôi sẽ ra đi trọn vẹn. Mai
sau các vị hãy áp dụng thực hành Thánh hạnh. Xin hãy cố gắng chớ
quên lời dạy bảo của tôi".
Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm tuất (tháng 12 năm 1742) sau khi
dùng trà, hành lễ buổi sáng, ngài hỏi đệ tử mấy giờ. Các đệ tử
đáp bây giờ là giờ mùi (khoảng 1 đến 3 giờ chiều), ngài thở hơi
cuối cùng.
Chúa Minh vương Nguyễn Phúc Chu ban thụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng để khắc bia.
Di thể được chuyển mai táng ngày 19 tháng 2 năm Quý hợi (1743)
ở ngôi tháp mới nằm phía Nam núi Thiên Thai, trên the đất làng
An Cựu, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (cũ).
Ngài Liễu Quán sinh giờ Thìn (khoảng 7 đến 9 giờ sáng) ngày 13
tháng 11 năm Ðinh vị (1667), viên tịch ngày 22 tháng 11 năm Nhâm
tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ III (1742), 43 tuổi hạ, 76 tuổi
đời, độ 49 đệ tử xuất gia danh tiếng và rất đông đệ tử tại gia.
Người thế tục cho rằng thế gian có sanh tử khứ lai, nhưng đối
với Ngài Liễu Quán thì không như vậy. Thương kính Ngài, vị Thiền
sư khả kính của chúng ta không còn nữa, Ngài đã nhập Niết-bàn.
Vậy không phải nói gì cho Ngài nữa, nhưng những công nghiệp phục
vụ đạo pháp của Ngài được ghi lại đây là để làm tỏ rạng đạo giáo
cho tương lai chúng ta.
Xin thú nhận rằng, nhân duyên nhập đạo, sự nghiệp truyền đăng
của ngài quá đặc biệt lớn lao, tôi không sao rõ hết được, nên nơi
đây chỉ thuật lại được đôi phần, như kẻ mù rờ voi vậy.
Pháp hiệu Thiện Kế kính soạn.
(Sư Thiện Kế sau về Trung Quốc và mất luôn bên ấy).
Hiện nay cách phía sau tháp độ 800 mét có chùa Thiền Tôn do
Ngài sáng lập và các đệ tử tiếp tục thừa kế trùng tu còn được đẹp
đẽ khang trang, trong đó có quả đại hồng chung đúc năm Cảnh Hưng
thứ 8 (1747) là di vật quý nhất.