Mở đầu cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam, Quyển 1, nhà
sử học Phạm Cao Dương viết: Dù sống tản mác ở bất cứ
phương trời nào, trong bất cứ quốc gia nào hay ở
chính quốc, người Việt Nam đều thuộc về một dân tộc
thuần nhất, có chung một nguồn gốc, một quá khứ và
những ước vọng chung về một ngày mai tươi đẹp huy
hoàng.
Lịch sử hơn bốn ngàn năm Văn hiến của dân tộc Việt
Nam đã chịu ảnh hưởng không ít về các điều kiện phát
triển thiên nhiên, cùng hoàn cảnh sinh sống của dân
tộc, vì thế Văn hóa Việt Nam cũng theo tiến trình
Lịch sử đã tạo nên một nền văn hóa có một sắc thái
rất đặc thù.
Nói đến văn hóa tức là nói đến tổ chức đời sống của
một dân tộc, trong đó bao gồm các mặt kinh tế, xã
hội, luật lệ, văn chương, mỹ thuật, tôn giáo, v. v.
. .
Sự phát triển đời sống xã hội của nhân loại nói
chung, dân tộc Việt Nam nói riêng đều chịu ảnh hưởng
một phần không nhỏ vào điều kiện phát triển đời sống
vật chất và tâm linh của từng địa phương.
Do ở một vị thế địa lý đặc biệt trên giao lộ quốc tế,
Nước Việt Nam là nơi gặp gỡ giữa các nền văn minh
Ấn-Hoa lẫn văn minh Hy-La. Người Việt Nam đã tiếp
xúc và hấp thụ được từ các nguồn tư tưởng sâu sắc,
tốt đẹp nhất. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có khả
năng tiếp nhận và Việt hóa những tinh hoa các trào
lưu văn hóa Đông Tây, gạt bỏ những điều không thích
hợp với lối sống dân tộc để trở thành một nền văn
hóa dân tộc với những đặc tính tự chủ, nhân bản, bất
khuất. Tinh hoa của nền văn minh Ấn Hoa đã được
người Việt Nam gạn lọc, đồng hóa để trở thành nền
văn hóa cổ truyền, thấm nhuần vào nếp sống Việt Nam.
Đạo Khổng và đạo Lão được đưa vào Việt Nam trong
thời kỳ Bắc thuộc bởi các quan lại Trung Hoa với mục
đích tổ chức cai trị, người Việt Nam khéo léo dung
hợp để đề cao tinh thần dân tộc và tính đoàn kết.
Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng một phần văn hóa và
phong tục Trung Hoa sau hơn một ngàn năm bị họ đô hộ,
nhưng dân tộc Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất của
mình với một nền văn hóa riêng biệt. Người Việt Nam
dùng chữ Hán trong văn tự, nhưng nhất định không đọc
theo giọng Tàu, cũng như không nói tiếng Tàu.
Một nền văn hóa có giá trị được định nghĩa là một
nền văn hóa nhân bản, phụng sự con người và nâng cao
giá trị con người. Văn hóa dân tộc Việt Nam qua bao
thăng trầm đều nhằm mục đích phụng sự quốc gia, dân
tộc. Thừa hưởng giá trị của nền văn hóa dân tộc đó,
dân tộc Việt Nam là một dân tộc có một lòng yêu nước
thâm sâu, một tình cảm bao dung, độ lượng và một đức
tính hy sinh vô bờ bến.
Song hành với tự tình quốc gia, dân tộc, Đạo Phật
đãø hướng dẫn con người có một nhận định, một niềm
tin hầu tạo nên một sức phấn đấu để tự thực hiện và
xây dựng một sự sống an lành cho chính mình cho
nhân loại, vì thế tư tưởng Phật giáo đã thấm nhuần
trong tâm khảm của mỗi người, được nuôi dưỡng bởi
mọi người, và cũng đang tồn tại vì cuộc đời.
Đạo Phật có khả năng dung hòa rất mạnh mẽ. Bằng
nguyên lý căn bản của Phật Pháp, bằng giá trị tu tập,
Đạo Phật đi đến đâu đều thích nghi ngay với văn hóa,
chính trị ở nơi đó mà hoằng dương phát triển. Có thể
nói Trí tuệ Thực chứng là dẫn đạo cốt yếu cho mọi
sinh hoạt phật sự, sẽ hoàn thành một cách linh động
mọi căn cơ, phương tiện.
Do vậy, Phật Giáo đã được dân tộc Việt Nam trang
trọng đón nhận và trân quý giữ gìn.
Ở đây, chúng ta thử nhìn vào sự ảnh hưởng và tính hỗ
tương giữa Văn Hóa Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử, kể từ thời mở nước và
dựng nước của dân tộc.
Nước Việt Nam lập quốc từ họ Hồng Bàng, khởi đầu là
Kinh Dương Vương và 18 đời vua Hùng Vương (khoảng
2897 năm trước Tây lịch), quốc hiệu là Văn Lang. Qua
nhiều thời đại, quốc hiệu thay đổi nhiều lần. Chúng
ta tạm chia các giai đoạn Lịch sử theo bài viết này
các thời kỳ như sau:
- Thời kỳ Lập Quốc và Bắc thuộc.
- Thời Kỳ Tự Chủ và Cận Đại.
- Thời Kỳ Hiện Đại.
- Thời Hải Ngoại.
I. Thời Kỳ Lập Quốc và Bắc Thuộc
Vua Hùng Vương là Quốc Tổ của dân tộc Việt, đã đặt
nên nền móng căn bản cho xã hội Việt Nam thời thượng
cổ.
Truyền thuyết Một Bọc Trăm Trứng được truyền tụng từ
đời này qua đời khác, biểu tượng nòi giống Rồng Tiên
đã ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt, như một
nhắc nhở thiêng liêng về huyết thống, cội nguồn của
dân tộc.
Vua Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở
Phong Châu, đặt ra các quan chức Lạc Hầu, Lạc tướng,
lấy các việc thuần hậu, đạo đức làm căn bản để trị
dân.
Các Vua Hùng truyền ngôi được tất cả 18 đời, đều
cùng lấy hiệu là Hùng Vương.
Thời kỳ này đã có nhiều đặc điểm truyền thống tinh
thần của dân tộc qua các chuyện cổ tích còn được lưu
truyền đến ngày nay như chuyện Phù Đổng Thiên Vương
phá giặc Ân, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh, chuyện Trầu
Cau, chuyện Bánh Dầy Bánh Chưng, chuyện Chử Đồng Tử
v. v. . . Nổi bật nhất có lẽ là chuyện Thành Cổ Loa
và An Dương Vương. Thành Cổ Loa, cho đến nay vẫn còn
vết tích chứng minh nền văn minh trống đồng của dân
tộc Việt.
Tuy ởø thời kỳ thượng cổ, văn hóa còn sơ khai, nhưng
ý nghĩa của những chuyện cổ tích thời đó đã hàm chứa
rất nhiều đặc tính văn hóa của dân tộc mà chúng ta
còn thừa hưởng được cho đến ngày nay như chuyện Bánh
Dầy, Bánh Chưng nói lên ý nghĩa cao quý của nguồn
gốc nhân bản dân tộc, đồng thời cũng nêu cao ý nghĩa
thờ cúng Tổ Tiên, tỏ lòng biết ơn cha mẹ, nhớ đến
cội nguồn. Ý thức này là nền tảng cho gia đình, dân
tộc trong đời sống văn hóa cổ truyền của người Việt.
Từ đó, tinh thần gia đình và phong tục ở chuyện Trầu
Cau, lòng ái quốc thương nòi qua hình ảnh Phù Đổng
Thiên Vương được in sâu vào lòng người dân Việt.
Nhìn chung, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa tự
chủ, có dân tộc tính, có khả năng sinh tồn và không
bị đồng hóa bởi các nền văn hóa khác mặc dù chịu
nhiều ảnh hưởng của phong tục Trung Hoa, nhưng dân
tộc Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất của người Việt
với một nền văn hóa cá biệt. Dân tộc Việt Nam đã
khéo léo biết dung hợp những cái tinh túy của văn
hóa người và thay đổi cho thích hợp để tạo thành bản
chất riêng biệt Việt Nam. Vì thế, mặc dù dân tộc
Việt Nam bị người Trung Hoa đô hộ trên một ngàn năm,
bản chất văn hóa dân tộc không những vẫn tồn tại mà
còn được phát triển tốt đẹp hơn bằng cách Việt Nam
hóa những tinh túy của văn minh Trung Hoa.
Trong khoảng hơn một ngàn năm này, các triều đại bên
Tầu liên tiếp xua quân xâm chiếm nước ta, đặt dân
Việt Nam dưới ách đô hộ của họ, bắt đầu từø nhà Hán,
nhà Ngô, nhà Lương, nhà Đường và chấm dứt khi quân
nhà Đông Hán bị Ngô Vương Quyền đánh tan trên sông
Bạch Đằng.
Lúc đầu, tuy có tiếp xúc trực tiếp với Ấn Độ, nhưng
sự phát triển của Phật giáo hết sức phôi thai. Các
vị sư như Mâu Bác, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội,
Chi Chương Lương được sử sách chép là những vị đầu
tiên truyền bá Phật Giáo vào Việt Nam.
Sang đến các triều đại Tùy, Đường bên Trung Hoa, đạo
Phật được phát triển tại Việt Nam tương đối vững
vàng hơn nhờ ở sự hiện diện khá nhiều của các Tăng
sĩ Trung Hoa sang Việt Nam lánh nạn vì tình trạng
loạn lạc bất ổn trong các triều đại ở Trung Hoa.
Trong thời gian này, Phật Giáo phát triển đã có hệ
thống như ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Ấn Độ qua Việt
Nam truyền pháp làm tổ thứ nhất của phái Thiền Tông
Tỳ-ni-đa-lưu-chi tại chùa Pháp Vân, tỉnh Bắc Ninh,
sau lại có Vô-Ngôn-Thông lập ra phái Vô-Ngôn-Thông ở
chùa Kiến Sơ cũng ở Bắc Ninh, sau đến các phái như
Thảo Đường, Tào Động, Lâm Tế v. v. . . điển hình
nhất là những kinh sách được dịch từ chữ Phạn sang
chữ Hán qua sự thông ngôn của người bản xứ.
Theo đó, sự phát sinh một nền văn hóa Việt Hán là do
nỗ lực truyền bá cưỡng bách, nghiệt ngã của các quan
lại người Tàu, cùng với sự hấp thụ tự nhiên của
người bản xứ sau hơn mười thế kỷ bị thống trị, đồng
thời cũng do sự nỗ lực của các sư người Tàu như
Vô-Thông-Ngôn, Thảo Đường trong việc truyền bá Phật
Giáo vào Việt Nam.
II. Thời Kỳ Tự Chủ Và Cận Đại.
Thời kỳ này bắt đầu từ năm 939, sau khi Ngô Quyền
đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở đầu
một kỷ nguyên mới cho một quốc gia Việt Nam độc lập.
Đến đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê thì các Tăng sĩ lỗi
lạc đều được triệu về giúp Vua lo cho dân cho nước.
Phật Giáo được triều đình công nhận từ đấy.
Cho đến đời Lý Thái Tổù thì Phật Giáo được cực kỳ
trọng vọng. Chùa chiền được xây cất và trùng tu rất
nhiều. Nổi tiếng nhất phải kể đến Vạn Hạnh Thiền Sư,
người có công giúp Lý Thái Tổ lập nên nhà Lý.
Chúng ta đọc lịch sử Phật giáo thế giới, chưa thấy
có vị Vua nào từ bỏ ngai vàng để đi tu, nhưng dưới
triều đại nhà Trần đã có các vị Vua xem ngai vàng
điện ngọc như đôi dép rách, không màng danh lợi,
luyến tiếc ngôi báu, xem vinh hoa phú quý nhẹ tợ mây
trời. Có nhà Vua đã từng từ bỏ cung điện trốn vào
núi xin xuất gia, sống đời Tăng sĩõ. Chừng ấy đủ
biết nền văn hóa Phật giáo - Phật pháp đã ăn sâu mọc
rễ trong quảng đại quần chúng, giá trị thực tu, thực
chứng, bằng lý tưởng Bồ Tát đạo, lý tưởng giác ngộ
giải thoát đã được người dân tiếp nhận một cách sâu
xa và thấm đượm hương giải thoát thuần nhất.
Thời đại tự chủ này, nền văn hóa đạo Phật đã đóng
góp một cách tích cực cho quốc gia dân tộc. Một mặt
thì lo tô bồi nền văn học, mở trường giáo dục,
thuyết giảng Phật pháp, chỉnh đốn chính trị, thể chế
quốc gia hầu kiện toàn một nền tự chủ, độc lập. Một
mặt lo chống giữ sơn hà, dẹp tan quân xâm lăng nhà
Nguyên đem lại cho nước nhà được thanh bình thịnh
trị.
Từ tiếng nói đoàn kết của toàn dân qua tinh thần
nhất quán của Hội Nghị Diên Hồng, đã tỏ rõ tinh thần
yêu nước, từ Vua quan đến dân chúng, đã biểu lộ và
nêu cao gương hòa hợp thống nhất: Hội họp trong tinh
thần đoàn kết, bàn luận trong tinh thần đoàn kết và
giải tán trong tinh thần đoàn kết mà Đức Phật đã dạy.
Đây là những điểm son của lịch sử nước nhà. Người
học đạo, hiểu đạo và biết áp dụng cái học, cái hiểu
của mình để xây dựng, làm những điều ích nước lợi
dân.
Trên chặng đường lịch sử này, ngoài xã hội, con dân
thì lưu xuất các bậc anh tài, tuấn kiệt, các anh
hùng dân tộc như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Trần
Quốc Toản, Trần Nhật Duật, Trần Bình Trọng, Trần
Khánh Dư . . . đánh đuổi xâm lăng giữ yên bờ cõi
nước nhà, một thời được thanh bình thịnh trị. Trong
đạo giáo thì thánh sanh chư vị Long Tượng, Thạch Trụ,
Thiền Gia, chư vị Tổ Sư Thiền Môn Pháp phái mà tự
thân của chư vị minh quân tài đức đã thể đạt tu
chứng.
Vua Trần Thánh Tôn lên ngôi Thái Thượng Hoàng năm
Mậu Dần (1278), truyền ngôi lại cho con là Thái Tử
Khâm tức Vua Trần Nhân Tôn, người đã có một trí tuệ
ưu việt, thông minh đĩnh đạt, làu thông kinh điển.
Lúc quốc gia thanh bình, dân chúng ấm no lạc nghiệp
nhà Vua chong đèn đọc sách dịch kinh, chuyên cần tu
tỉnh. Lúc nước nhà bị giày xéo xâm lăng, thì nhà Vua
cầm quân, cưỡi ngựa xông pha ngoài trận mạc, đánh
đuổi ngoại xâm, giữ yên sơn hà xã tắc. Nhà Vua tu
đạo Bồ Tát, phụng hành hạnh vị tha, thỉnh cầu Tuệ
Trung Thượng Sỹ chỉ dạy pháp tu, chuyên tinh thiền
định để rồi chứng đắc Sơ Tổ Thiền Tông Trúc Lâm Yên
Tử. Tổ Trúc Lâm trước khi thị tịch, nói kệ chứng đắc:
Nhất thiết Pháp bất sanh,
Nhất thiết Pháp bất diệt,
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền,
Hà khứ lai chi hữu.
Và Tôn hiệu của Ngài là Đại Thánh Trần Triều Trúc
Lâm Đầu Đà Tĩnh Huệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Chư
Vị Tổ Đức Pháp Loa Tôn Sư, Huyền Quang Tôn Sư. . .
trước khi thị tịch cũng như bao nhiêu Tổ Sư trước,
Pháp Loa Tôn Sư đã đề kệ:
Trần duyên rũ sạch từ xưa,
Bốn mươi năm lẻ, bây giờ là tiên,
Hỏi chi thêm bận, thêm phiền,
Trăng thanh gió mát là miền tiêu dao.
Và Huyền Quang Tôn Sư cũng vậy, nhà Vua đã ban cho
Ngài tự hiệu: Trúc Lâm Đệ Tam Đại Tự Pháp Huyền
Quang Tôn Giả.
Như sợi chỉ tơ lung linh trước gió, khi thẳng khi
chùng đã xuyên suốt một dòng lịch sử, nền văn hóa
dân tộc có lúc thật thiết tha tình tự, nhưng cũng có
lúc phôi pha, nghiệt ngã bởi những văn hóa ngoại lai
xâm nhập, hay tình tự dân tộc bị xói mòn theo tính
tùy tiện. Do vậy, dòng sinh mệnh Phật giáo chảy dài
suốt chặng đường lịch sử dân tộc cho đến thời kỳ cận
đại và hiện đại cũng bị ảnh hưởng sự suy sụp đó
không ít. Nói chung, khi đất nước được thanh bình
phồn thịnh, dân chúng được tự do, hạnh phúc, thì đạo
Phật cũng được tự do hành đạo. Còn lúc gặp thời
nghiệt ngã, đất nước điêu linh, thì đạo Phật cũng
phải uốn mình chảy qua các thác ghềnh thời đại, để
cùng chia xẻ nỗi đau chung của dân tộc.
III. Thời Kỳ Hiện Đại
Nền văn hóa dân tộc Việt ngày nay đã bị lật ngược
dưới thể chế nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa từ giáo dục,
học thuật, tín ngưỡng, xã hội, từ thiện, đạo đức. .
. cả một truyền thống văn hóa tốt đẹp bị lung lay
tận gốc rễ.
Hòa Thượng Huyền Quang cũng đã nói:
Đảng CS Việt Nam là đàn cháu chắt, là kẻ hậu sinh ăn
trái rồi bẻ cành, nhổ gốc đập nát, uống nước đầu
nguồn rồi quấy phá tanh hôi.
Tất cả những gia sản quý báu mang tính cách lịch sử,
những cái hay, cái đẹp của đất nước đã bị nhà nước
Xã Hội Chủ Nghĩa phá hủy, đập bỏ, hầu hết những đồ
cổ của các Bảo Tàng Viện đã không cánh mà bay ra
nước ngoài chỉ vì những lợi nhuận cá nhân. Đây chỉ
là một phần nhỏ của lãnh vực nghệ thuật điêu khắc
hội họa. Dưới sự lãnh đạo của những đỉnh cao trí tuệ
bần nông nền giáo dục, đạo đức, lễ nghi, hiếu kính
đã bị đẩy sâu xuống bến bờ vực thẳm để tạo nên nạn
thất học, trẻ em bị tung ra ngoài xã hội bươi móc
từng đống rác nhặt giấy rách, ve chai để phụ giúp
cho sinh kế gia đình; nạn trà dư tửu hậu của những
người quyền thế lấn áp quần chúng nghèo khó tạo nên
những tệ nạn xã hội và nạn quan liêu tham nhũng đã
làm ung thối đất nước. Còn tôn giáo, từ thiện thì
sao? Tín ngưỡng không còn được tôn trọng, họ đã chà
đạp, đàn áp, bắt bớ tù đày những người đấu tranh vì
dân, vì nước. Từ những sự suy sụp trầm trọng của
ngôi nhà tâm linh, đạo đức, đã kéo theo luôn nền văn
hóa, văn học nước nhà lún xuống vực sâu.
Lương dân bị bức hại, nhân quyền bị chà đạp, vận
mệnh quốc gia dân tộc là trọng mà nhà nước Xã Hội
Chủ Nghĩa còn không quan tâm xây dựng hà huống gì là
tôn giáo? Do vậy, cùng chung số phận với đất nước,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã bị bức tử
để nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa thành lập Giáo Hội Nhà
Nước, là một bộ phận cơ chế đảng CSVN. Vậy thì nói
đến nền văn hóa dân tộc Việt và dòng sinh mệnh Phật
giáo vào thời hiện đại, chúng ta phải nói cái gì?
Nói cái bất công và nô lệ? Nói cái tệ trạng xã hội:
sự nghèo đói, bão lụt, nhà trôi mất của? Nói đến sự
ngu dốt, bần cùng mà nhà nước quan liêu đã không
chấn chỉnh vực dậy những gì đã sa sút? Nói đến tín
ngưỡng bị chà đạp và đảng phái hóa nhân sự Giáo Hội
Nhà Nước? Nói đến sự lũng đoạn, thao túng cài người
làm tình báo công an? Văn hóa là sự trong sáng và
sáng tạo của con người, là nếp sống với tập tục
thanh cao, là những lời hay ý đẹp của một con người,
là đời sống có nhân, có nghĩa, biết trên biết dưới,
tình người thuần hậu nhân bản. Văn hóa là nền tảng
của đất nước được thành tựu bởi từng cá nhân đóng
góp bằng tình cảm thương yêu, bằng lời nói nhã nhặn
lịch sử, bằng cử chỉ lễ độ, bằng tấm lòng lịch
nghiệm bao dung, bằng tư cách phong thái đạo đức
thiện mỹ. Từ đó, nền văn hóa dân tộc được đượm nhuần
tươi mát, và trưởng thành sức sống thực, sống đẹp,
sống tinh khôi. Do vậy, thế hệ người hiện tại phải ý
thức sự tồn vong của nền văn hóa cổ truyền nước nhà
để bảo tồn và xây dựng những cái hay cái đẹp. Sử gia
Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, quyển 2,
trang 353, đã nói:
Mặc dù nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn độc lập,
nhưng sự hay dở tương lai chưa biết ra thế nào? Song
người bản quốc phải biết rằng, phàm sự sinh tồn của
một nước, là ở cái chí nguyện, sự nhẫn nại và sự cố
gắng của người trong nước, vậy ta phải hết sức mà
học tập, mà giữ cái tâm trí cho bền vững thì chắc
chắn tương lai còn có nhiều hy vọng. Nước Việt Nam
ta đã có cái văn hóa chẳng thua kém gì ai, và lại có
một lịch sử vẻ vang, nếu ta biết lợi dụng cái tiềm
lực cố hữu và cái tính thông minh hiếu học của ta để
theo thời mà tiến hóa, thì sao ta lại không có ngày
nối được cái chí của ông cha mà dệt thêm một đoạn
lịch sử mỹ lệ hơn trước?
Đây là ước vọng chung của con dân Việt Nam, hãy cùng
nhau dệt nên tấm thảm văn hóa nhiều mầu sắc, trân
quý cho quê hương dân tộc, mà không là tiếp tay với
những ai vong thân, vọng ngoại để đánh mất nền văn
hóa giống nòi.
Sự góp phần những giọt nước để tạo thành những giòng
sông văn hóa do tất cả mọi người đều thực hiện,
không miễn trừ một ai, chỉ khác nhau là kẻ nhận thức
ra hay kẻ không nhận thức ra. Và dĩ nhiên những phần
đóng góp này cũng khác nhau, góp nước trong và góp
nước đục lẫn cả đất bùn rác rến, bẩn thỉu tanh hôi.
Nhận thức ra sự góp phần này, chúng ta ai cũng biết
là nên góp phần nước trong, không nên góp phần nước
đục, thì giòng sông sẽ trong, nhiều người góp phần
nước đục thì giòng sông sẽ đục. Hơn nữa, giòng sông
luôn luôn chảy, không có giòng sông nào hoàn toàn
trong hay hoàn toàn đục. Cũng không có sự trong hay
đục nào thường hằng vĩnh cửu, sự gạn đục khơi trong
là sự kiện trong tầm tay của tất cả con dân đất
nước, đạt được hay không chỉ là vấn đề thời gian và
mọi người cùng có ý thức, cùng nhiệt tâm bắt tay bảo
nhau cùng làm hay không? Đó là nghĩa vụ phải làm,
Nghĩa Vụ Văn Hóa, con dân đất nước phải lo làm tròn
đối với dân tộc. - (Văn Hóa Việt Nam - Duyên Hạc Lê
Thái Ất - trang 464, Đốc Sự 17 Quốc Gia Hành Chánh
xuất bản năm 1999. )
Ba thập niên ở miền Bắc và hơn hai thập niên ở miền
Nam, nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã làm giòng
sông văn hóa dân tộc bị vẩn đục và ô nhiễm. Lý do,
là vì họ góp quá nhiều nước đục từ tư tưởng ngoại
lai Maxism-Léninism. Chủ trương đấu tố, giết hại
thành phần địa chủ rập khuôn theo Trung quốc đã làm
cho đất nước dân tộc điêu linh, thống khổ, thì làm
gì có cái đẹp, cái hay, cái trong sáng trong chủ
nghĩa tàn độc đó. Vì thế, trong trách nhiệm và bổn
phận của con dân nước Việt, chúng ta hãy cùng góp
phần chấn chỉnh lại nề nếp gia phong để tạo thành
sinh lực và tác động văn hóa vào lòng quê hương, cứu
vãn lại nền văn hóa cổ truyền tốt đẹp của cha ông đã
dần dần băng hoại, giữa lúc cả thế giới ngày càng
lớn mạnh.
Thế hệ người Việt chúng ta hôm nay, nếu không kịp
thời thức tỉnh để tạo dựng và tựu thành nền văn hóa
tiến bộ cho nước nhà thì chắc hẳn rằng quê hương sẽ
đắm chìm trôi chảy trong giòng văn hóa suy đồi của
chủ nghĩa ngoại lai, để rồi nền văn hiến hơn 4000
năm của cha ông để lại sẽ không còn, mà văn hiến
không còn thì văn minh cũng không có và văn minh
không có thì văn hóa chỉ là cái xác không hồn, tinh
hoa văn hóa bị hủy diệt.
Tóm lại, nền văn hóa dân tộc và Phật giáo Việt Nam
trong gai đoạn lịch sử hiện tại từ năm 1975 đến nay
vô cùng đen tối, đạo pháp và quê hương đang gánh
chịu một đại thảm họa chưa biết đến bao giờ mới chấm
dứt.
IV. Thời Hải Ngoại:
Kể từ sau biến cố 1975, làn sóng người Việt tị nạn
lưu lạc trên khắp thế giới, bằng mọi phương tiện
vượt biên, vượt biển đã mang theo tinh hoa đất nước
bay đi khắp nơi, từ những người dân cần cù lam lũ,
đến những thành phần khoa bảng trí thức, các giới
văn nghệ sĩ, các thành phần quân, cán, chính của
quốc gia cho đến các chư Tăng Ni cũng có mặt trong
đoàn người tha hương này. Những con tàu vượt biển
này đã lao lung cùng bão tố, sóng to biển cả, có
chuyến may mắn được đến bến bờ bình an, có chuyến
cũng đắm mình chìm sâu dưới lòng đại dương. Luân lưu
trên quê hương thứ hai nơi các trại tị nạn, người
dân Việt và Phật giáo vẫn tiếp tục giữ gìn truyền
thống văn hóa giống nòi, chùa chiền được tạo dựng để
tiếp tục những sinh hoạt tôn giáo. Các Tăng Ni đã
xây dựng những ngôi chùa bằng những phương tiện eo
hẹp để giữ nếp sinh hoạt của chốn Thiền môn, sớm
công phu, chiều bái sám, thuyết giảng và tổ chức
những buổi lễ truyền thọ tam quy, ngũ giới, hướng
dẫn người Phật tử tu tập và giữ đúng nếp Phật sự như
ở quê nhà. Ngay cả các tổ chức Gia Đình Phật Tử cũng
tiếp tục sinh hoạt theo phương hướng và nội quy của
tổ chức như trước kia. Các em vẫn tự khép mình theo
quy chế và tạo được những sinh hoạt phong phú cho
đời sống trong trại tị nạn chứ không bị sa sút, gò
bó, áp bức trong ách thống trị như tại quê nhà. Đây
là một giá trị đặc thù mà tưởng như hai chữ văn hóa
đã luôn sống và tuôn chảy trong huyết quản của từng
người dân Việt, dù bất cứ hoàn cảnh và môi trường
nào.
Qua những ngày lễ hội Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên
Đán là những thời gian làm sống dậy lễ nghi, tinh
thần hiếu thảo và những tự tính của người dân Việt
Nam. Dẫu biết rằng đời sống ở trại tị nạn thiếu thốn
về mọi mặt, nhưng người dân Việt không thiếu thốn
đời sống tâm linh hay nếp sống của nền văn hóa xa
xưa tốt đẹp mà tổ tiên cha ông đã gây dựng tự lâu
đời, để đàn con cháu dù tha hương đến góc bể chân
trời nào vẫn tự nhớ lấy cội nguồn mà thi thiết theo
hoàn cảnh, theo khả năng hiện có. Ba ngày Tết đến
cũng thấy có cây nêu, phong pháo, phướng đỏ dựng
trước sân, cũng có bánh chưng, bánh tét, trái cây
dưa hấu, mâm cơm trên bàn thờ gia tiên để nhớ đến
công đức tiền nhân; cũng có những bao lì xì tươi
thắm; cũng háo hức lễ chùa cúng Phật đầu năm; cũng
tíu tít chúc mừng nhau phước thọ tăng long, sống lâu
trăm tuổi; cũng xim xăm, hái lộc đoán vận mệnh công
danh. . . Và cũng trong những ngày lễ hội Vu Lan -
Mùa Báo Hiếu - đàn con cháu tề tựu quây quần thể
hiện tinh thần hiếu kính chúc thọ các bậc sinh
thành, ông bà nội ngoại không khác gì đời sống quê
nhà trước năm 75. Và để rồi tâm tư được gợi nhớ lại
những người bạn láng giềng bên hàng dậu thưa, bên
lũy tre xanh, mời nhau miếng bánh mới làm, miếng
trầu mới têm. Nói chung, và cũng thiết nghĩ rằng, dù
chỉ là cuộc sống tạm cư, nhưng người Việt đã không
đánh mất hay lãng quên đời sống văn hóa tốt đẹp như
câu tục ngữ: Cây có cội, nước có nguồn, chim có Tổ,
người có Tông. Bằng sự phát triển và tiếp nối dòng
sinh mệnh đó, đạo Phật Việt đã hòa nhập vào nếp sống
người dân theo mỗi hoàn cảnh, tùy duyên hóa độ, bất
biến để giữ bản hoài cửu tế chúng sinh. Trong hoàn
cảnh đó, người Tăng sĩ phải biết hòa nhập vào dòng
đời để thể hiện lý tưởng Thượng Cầu Hạ Hóa, theo
bước chân người tị nạn. Từ giá trị đó, chúng ta có
thể hiểu, nơi nào có sự sống của người dân Việt, nơi
đó có mặt của đạo Phật Việt, hay nơi nào có đời sống
văn hóa dân tộc Việt Nam, thì nơi đó có nền văn hóa
đạo Phật Việt Nam.
Để tài bồi mạch nguồn sự sống, và nối dài đôi tay
tạo dựng của một giống nòi, dân tộc Việt Nam đã dừng
chân đứng lại trên các quốc gia định cư, và nơi đây,
giống dân Lạc Việt đã thể hiện nền văn hóa sống, có
thể tạm ghi qua mười tiểu mục:
1. Cộng đồng người Việt Nam quy tụ sống chung với
nhau.
2. Sinh hoạt chung với cộng đồng người dân bản xứ.
3. Người Việt Nam đã góp mặt trong những cơ chế
chính quyền.
4. Một số học sinh Việt Nam xuất sắc - thần đồng -
trong các trường văn hóa và quân đội nổi tiếng của
Hoa Kỳ.
5. Mở trường dạy Việt ngữ để bảo lưu nền văn hóa,
giữ gìn ngôn ngữ Việt Nam.
6. Các cơ quan truyền thông, báo chí được thành lập
và cập nhập.
7. Cộng đồng Phật tử giữ vững niềm tin Tam Bảo và hộ
pháp một cách đắc lực.
8. Xây dựng cơ sở giáo dục, đời sống tâm linh: Tự
Viện, Tu Viện trong từng địa hạt người Việt Nam cư
ngụ.
9. Tổ chức những khóa tu học Phật pháp, trau dồi
kiến thức Phật pháp và thăng hoa giá trị sống thánh
thiện.
10. Người dân Việt Nam luôn nhớ về cội nguồn - quê
Cha, đất Tổ - Việt Nam Một Ngày Về - Ý Thức Dân Tộc.
Nói chung, về mọi phương diện, cộng đồng người Việt
tị nạn đã tương đối thành tựu từ văn hóa, chính trị,
thương mại hay giáo dục, tôn giáo, xã hội. . . đã có
một bước tiến khá dài trên quê hương định cư này.
Điểm qua một vài lãnh vực nổi bật mà người Việt Nam
thể đạt một cách rực rỡ, đã làm người dân bản xứ
nghiêng mình thán phục, tài năng và trí thông minh
hiếm có trong lãnh vực giáo dục, khoa học kỹ thuật,
tác giả Duyên Hạc Lê Thái Ất trong Văn Hóa Việt Nam
(trang 206, xuất bản năm 1999), đã nêu lên một vài
thí dụ điển hình:
Giới trẻ đi học chiếm tỉ lệ khá cao, số tốt nghiệp
đại học càng ngày càng đông, một số nổi tiếng là
thần đồng, tại các trường danh tiếng Hoa Kỳ.
- Trường hợp đặc biệt là Nguyễn Tuệ đã đậu trong 7
năm liền 7 bằng cấp, gồm 6 cử nhân và 1 tiến sĩ, phá
kỷ lục tại trường MIT (Massachusettes Institute of
Technology) trường Đại Học Kỹ Thuật danh tiếng nhất
Hoa Kỳ.
Nguyễn Tuệ sinh năm 1962, thanh niên tị nạn đến Hoa
Kỳ năm 16 tuổi, sau 10 năm học tập đã đạt thành kết
quả vượt bực, được giới báo chí vinh danh là siêu
học giả.
- Khoa học gia không gian Nguyễn Xuân Vinh đã lập ra
lý thuyết quỹ đạo tối ưu, nghĩa là tìm ra đường gần
nhất từ địa cầu đến mặt trăng, có tác phẩm giá trị
về không gian học Optimal Trajectories in
Atmospheric Flight xuất bản năm 1981 (tạm dịch:
Những Quỹ Đạo Tối Ưu Cho Đường Bay Không Gian.
- Phi hành gia không gian Eugene H. Trịnh đã bay
nhiều lần, lần đầu tiên năm 1991, để nghiên cứu sự
rơi của chất lỏng trong chân không.
- Tiến sĩ Hóa học phóng xạ Phan Viết Phùng tức Peter
Phùng đã góp công vào việc nghiên cứu áp dụng nguyên
tử năng vào kỹ nghệ và y khoa.
- Giáo Sư Nguyễn Hữu Xương, năm 1975, đã thành công
sáng chế được một hệ thống quang tuyến X, mang tên
Xuong's Machine, dùng để khảo sát tinh thể protéin ở
cả 3 chiều, có khả năng phóng to lên 100 triệu lần.
Máy đã được Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ công nhận và
được coi là máy tiến bộ nhất thế giới hiện này, rất
hữu ích trong việc điều trị hai bệnh nan y là ung
thư và liệt kháng (AIDS).
- Khoa học gia Hoá học Trương Kế An tại Pháp đã
thành công với 38 bằng sáng chế, đặc biệt là xăng
đặc, được đánh giá như mở đầu cho một thời đại mới
của văn minh nhân loại, sau các thời đại nguyên tử,
hỏa tiễn và điện toán.
Song song với sự thành đạt của xã hội bên ngoài, về
lãnh vực tôn giáo, Phật giáo một phần nào nhịp nhàng
phát triển đáp ứng được với nhu cầu đời sống tâm
linh, về phương diện cơ sở, các ngôi tự viện được
xây dựng hầu như khắp các địa bàn hoạt động của các
quốc gia, nơi có sự hiện diện của cộng đồng người
Việt, đều có hình bóng của các mái chùa đủ tầm cỡ để
chuyên chở nền văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc Phật
giáo Việt Nam - và cũng dưới những mái chùa này đã
vực đứng lên bao tâm hồn đau khổ, bi thương, vỡ nát
niềm tin và những khủng hoảng tinh thần vì kinh qua
các biến cố thời đại của người dân mất nước.
Về phương diện tư duy, thực nghiệm thì những Tự Viện
là nơi hoằng pháp lợi sanh, là chốn bảo trì nền văn
hóa Việt. Ở đấy, thế hệ tuổi già có nơi niệm Phật,
làm công quả để vun trồng công đức cho nếp sống tâm
linh, và cũng ở đấy, là nơi cho các em cùng trau dồi
tiếng Việt, cùng tìm hiểu văn học sử nước nhà, cũng
là nơi gặp gỡ chung của mọi tầng lớp, mọi thế hệ.
Tóm lại, nền văn hóa của dân tộc và giòng lịch sử
của Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền với nhau trên
lẽ sống còn thịnh suy. Suốt một chiều dài lịch sử
đó, dân tộc Việt cũng có lúc thăng trầm, quê hương
có khi thanh bình, có lúc loạn lạc, nhưng chưa có
lúc nào người dân Việt Nam đánh mất nền văn hóa của
mình để bị lệ thuộc hay bị đồng hóa bởi văn hóa
ngoại lai kể cả thời kỳ hơn 1000 năm Bắc thuộc, hơn
100 năm bị người phương Tây đô hộ, cũng không làm
cho nền văn hóa Việt bị suy giảm, hao mòn; mà lắm
khi còn làm nổi bật ý thức: Gia bần tri hiếu tử,
quốc loạn thức tôi trung để nền văn hóa nước nhà
càng có thêm bề dày và chiều sâu vững chắc.
Hôm nay, tầng lớp người đang sống nơi Hải ngoại có
quan tâm đến giới trẻ của chúng ta? Những thế hệ
được sinh ra và trưởng thành trong nền văn hóa này:
Nền văn hóa Tây Phương tiến bộ về Cơ khí Vật chất,
nền văn hóa Khoa học Thực nghiệm. Nếu chúng ta không
có mục tiêu dẫn khởi và tập chú cho giới trẻ, thì có
e rằng họ sẽ bị nền văn hóa bản xứ xâm chiếm trọn
tâm tư và cuốn họ hướng về một phương trời nào khác,
và từ đó họ sẽ đánh mất cội nguồn, văn hóa dân tộc
nơi chính họ. Đây có thể là một vấn đề nghiêm trọng
để chúng ta suy tư về những thế hệ tương lai.
Hoavouu.com