làm chủ cả hai vấn đề: đàm phán và là bàn tay sắt để giữ cho các
vùng hẻo lánh được bình yên. Hoàng tử A Dục đã thuyên chuyển các anh em
của mình, thậm chí giết hại một số người, và đã xây dựng lực lượng đồng
minh đủ mạnh tại triều đình, cho nên khi vua cha băng hà, người mà vua
Tần Bà Sa La mong muốn kế vị đã bị soái ngôi và hoàng tử A Dục đã cướp
ngôi. Gần một thập kỷ sau đó, ông đã hành quân qua phía Tây và phía Nam
châu Á, trở thành vị vua mạnh mẽ nhất và đáng sợ nhất lúc bấy giờ.
Đại Đế Asoka
|
Suốt tám năm, vương triều của vua A Dục đã lặn ngập trong cuộc chiến
tranh đẫm máu để chinh phục tiểu quốc Kalinga (tương đương với bang
Orissa ngày nay). Theo lời thú nhận của vua A Dục, cuộc chiến này đã
khiến cho hơn 150.000 người dân Kalinga bị trục xuất, 100.000 người bị
thiệt mạng và rất nhiều người dân Kalinga đã qua đời vì nhiều nguyên
nhân khác.
Một sự cải đổi diệu kỳ
Câu chuyện cải đạo của vua A Dục hầu như chưa từng có trong biên niên
sử của lịch sử tôn giáo. Trong vòng một năm sau cuộc chiến xâm lược
vùng Kalinga, hoàng đế A Dục đã cải đạo, đi theo Phật giáo, quy y Tam
bảo và chuyển đổi nhân cách hoàn toàn, từ một vị bạo chúa sang một nhà
vua hiền triết, nhân đức. Vua đã thay đổi để xứng đáng là một vị hộ
pháp. Vua đã định hình và tạo dựng một nền văn hóa hòa bình, quan tâm và
chăm lo cho tất cả chúng sanh. Trên lộ trình đó, vua đã hỗ trợ đắc lực
cho việc phát huy và truyền bá đạo Phật ở trong nước cũng như ở nước
ngoài.
Điều gì đã tạo ra sự chuyển biến đáng kinh ngạc như thế? Có rất nhiều
lời lý giải cho vấn đề này. Có một câu trả lời mang tính huyền thoại
nhưng thường được trích dẫn, đó là những lời ăn năn, hối cải của vua:
“Tôi đã làm gì? Nếu đây là một chiến thắng, thế thì sự thất bại là gì?
Đây có phải là một sự chiến thắng hay là thất bại? Đây là công bằng hay
bất công? Đây là sự dũng cảm hay là sự tháo chạy? Có dũng cảm chăng
khi giết hại rất nhiều trẻ em và phụ nữ vô tội? Phải chăng tôi đã làm
điều đó để mở rộng lãnh thổ và để được thịnh vượng, hay là để phá hủy
vương quốc và sự hưng thịnh của người khác? Nhiều người đã mất chồng,
một số thì mất cha, một số người thì mất con, và thậm chí là một số
người mất luôn cả những đứa con chưa chào đời.... Những mảnh vụn của các
thi thể này là gì? Chúng là dấu hiệu của sự chiến thắng hay thất bại?
Những con chim kên kên, quạ, đại bàng kia là sứ giả của thần chết hay là
của thế lực ác?”.
Dù chi tiết về nó là gì đi nữa thì tham vọng bạo lực của vua A Dục đã
chuyển đổi thành sự hỗ trợ nhân đạo đối với người dân trong nước và
những người bên ngoài lãnh thổ Ấn Độ. Trong suốt 30 năm sau đó, vua đã
trở thành một vị vua nhân đức mà người dân hằng mơ ước trong nhiều thế
kỷ, chính vì thế mà lịch sử về cuộc đời của vua A Dục đã trở thành một
huyền thoại. Tất nhiên, trong gần 2.000 năm, những gì mà chúng ta được
biết về vua A Dục là thông qua những văn bản, những kinh sách của Phật
giáo được viết vào khoảng 400 hay 600 năm sau khi vua băng hà. Cộng đồng
Ấn Độ giáo, tôn giáo mà vua đã từ bỏ, đã không hề quan tâm đến ông, mãi
cho đến năm 1915, khi mà vấn đề nan giải về ngôn ngữ đã được giải quyết
và di sản lịch sử của vua A Dục cuối cùng cũng đã được nhiều người quan
tâm.
Câu chuyện lại quay ngược trở về năm 1828, khi ông James Prinsep, một
nhà khảo cổ học, một triết gia lỗi lạc người Ấn-Anh đã tìm ra được cách
chuyển dịch ngôn ngữ Brahmi cổ đại. Brahmi là ngôn ngữ đã được sử dụng
để khắc ghi trong 33 “sắc lệnh của vua A Dục” mà chúng ta có ngày hôm
nay, những sắc lệnh ấy được khắc trên đá, có những trụ đá của vua A Dục
nặng đến 50 tấn và cả trên những tảng đá lớn, cũng như trên một số vách
động. Một số sắc lệnh thì khá ngắn, nhưng một số khác thì dài đến hàng
trăm từ. Chúng được khắc đi khắc lại nhiều nơi trên khắp đất nước. Chẳng
hạn như bộ sưu tập 14 sắc lệnh ở Girnar đã được tìm thấy tại năm địa
điểm và một phiên bản rút gọn tại hai điểm khác.
Trong các thông điệp mà đức vua gởi đến thần dân đó, chúng đều có
tính thân mật hơn là trịnh trọng. Vua A Dục nói đến bản thân mình là
“người thân của các vị thần, là vua Piyadasi”, có nghĩa “vua là người
quan tâm đến mọi người với tình cảm chân thành”. Mãi cho đến năm 1915,
khi những sắc lệnh cuối cùng được phát hiện, chúng ta thấy những bản văn
ấy không chỉ nói đến vua Piyadasi, mà còn nói đến vua A Dục, xác nhận
sự liên quan của vua đến tất cả những sắc lệnh ấy. Những điều đó đã được
đưa vào huyền thoại và được lưu hành trong lịch sử. Vua A Dục nổi tiếng
là một nhà lãnh đạo đấu tranh cho bình đẳng và công bằng xã hội, thực
hiện chính sách khoan dung với các tôn giáo và hơn thế nữa. HG Wells đã
viết: “Giữa hàng chục ngàn tên tuổi của các quốc vương đã tạo thành các
dòng lịch sử, quyền lực, sự dũng cảm, sự cao quý và thanh bình của họ,
tên tuổi của vua A Dục tỏa sáng, và tỏa sáng như là một ngôi sao đơn
lẻ”.
Sự khám phá ấy đã đánh thức dân tộc Ấn Độ, giúp họ biết về kho tàng
lịch sử ẩn giấu của họ. Vào giữa thế kỷ 20, danh tiếng của vua A Dục đã
vang dội trở lại khắp vùng Nam Á như những gì mà đức vua đã có hơn 2.200
năm trước. Ngay giữa trung tâm của quốc kỳ Ấn Độ là hình bánh xe Pháp
luân của vua A Dục, một hình ảnh được tìm thấy trên một số sắc lệnh của
vua, biểu trưng cho đức hạnh. Mặc dù đã trở thành một Phật tử, nhưng
những thành tựu của vua A Dục trong cương vị một nhà lãnh đạo quốc gia
là niềm tự hào dân tộc của Ấn Độ ngày nay.
Chính các sắc lệnh của vua đã cho chúng ta một cái nhìn sơ bộ về thế
giới của vua A Dục, về những gì mà vua mong muốn đem lại cho nhân loại.
Chúng hướng đến tính thiết thực. Trong phần đầu của các bia ký ở Girnar
có ghi rằng: “Trước đây, trong bếp của “người thân của các vị thần”, vua
Piyadasi, mỗi ngày có đến hàng trăm, hàng ngàn động vật bị giết để làm
cà-ri. Nhưng bây giờ, nhờ vào những lời dạy của Phật, chỉ có ba sinh
vật, hai con công và một con hươu bị chết, và con hươu thì không phải
lúc nào cũng có. Và có khi ngay cả ba sinh vật ấy cũng không bị giết”.
Vua khuyến khích mọi người tập ăn chay dần dần.
Điều làm cho vua A Dục hấp dẫn một cách kỳ lạ giữa các nhà cải cách
vĩ đại trong lịch sử là bởi ông thực sự có sức mạnh để thể hiện tầm nhìn
của mình. Một nhà quản lý có tính thực tế, vua đã đưa những hệ thống
trách nhiệm vào trong các cải cách của mình. Từ những sắc lệnh của vua
chúng ta có thể thấy rõ điều đó.
Vua đã phát huy tinh thần bình đẳng, xây dựng nền hòa bình, công bằng
xã hội, tôn trọng quyền phụ nữ, tự do tôn giáo, phát triển giáo dục,
khoa học, đối xử nhân đạo với các tù nhân, phát triển bền vững và xây
dựng hệ thống chăm sóc y tế miễn phí rộng khắp cho các loài động vật,
chim muông, và lẽ đương nhiên là cho cả con người.
Vua phát triển các dự án về công trình công cộng chính yếu, bao gồm
bệnh viện, phòng khám và các trường học. Vua còn cho xây dựng các nhà
nghỉ giữa những khu dân cư, cùng với những giếng nước, cây ăn quả và cây
che mát để cho khách bộ hành dừng chân khi mệt mỏi.
Vua ra lệnh cấm chặt phá rừng, nhất là cấm săn bắn, và tìm cách cải thiện đời sống của người nô lệ.
Đối với xã hội, nhà vua kêu gọi người dân thể hiện thái độ tôn trọng, khoan dung và tiêu xài có điều độ.
Đối với cá nhân, vua chủ trương sống tử tế, tự kiểm điểm, trung thực,
biết ơn, trung thành, và tự làm chủ bản thân. Vua khẳng định rằng: Sức mạnh của tình thương yêu vĩ đại hơn sức mạnh của thanh kiếm.
Một đế chế thân thiện
với các tôn giáo
Sự cải đạo của vua A Dục đã làm thay đổi cuộc sống của chính vua và
của xã hội Ấn Độ. Những sắc lệnh của vua nhắm đến việc bãi bỏ các nghi
lễ, giáo điều và hạn chế các lễ hội, phát huy việc vận dụng những giá
trị đạo đức của Phật giáo vào trong cuộc sống hàng ngày. Chương trình
nghị sự rộng lớn của vua đã thể hiện sự hiểu biết của vua về Phật giáo.
Về bản chất, Phật pháp dạy mọi người thương yêu tất cả mọi chúng sinh,
nói lời chân thật, tôn trọng và bao dung. Để thúc đẩy sự phát triển Phật
giáo, vua A Dục đã xây dựng hàng ngàn bảo tháp trên toàn quốc. Vua còn
đưa các vị Tăng sĩ, các vị Giáo thọ sư đi đến các vùng như Syria, Iran,
Ai Cập, Hy Lạp, Ý, Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan,
Lào, Campuchia, và Việt Nam. Vua còn đưa con gái của mình là Ni sư
Sanghamitta, và con trai là Đại đức Mahinda đến Tích Lan để hoằng dương
Phật pháp. Về cơ bản, những nỗ lực truyền giáo của A Dục đã biến Phật
giáo truyền thống thành một tôn giáo cải cách trẻ trung, một tôn giáo
mang tầm vóc quốc tế.
Ngày nay, việc truyền bá Phật giáo đến nhiều nơi nghe có vẻ bình
thường, nhưng sự truyền bá của vua A Dục không giống với định kiến của
chúng ta về một nhà truyền giáo. Vua A Dục không phải là một triết gia,
cũng không phải là một tu sĩ, nhưng vua vẫn tiến hành việc cải thiện đời
sống hằng ngày của nhân dân theo những giá trị của đạo Phật. Đồng thời,
vua thực hiện chính sách tôn trọng các tôn giáo khác một cách nghiêm
túc như đối với Phật giáo vậy. Vua kêu gọi tất cả mọi người tôn trọng
lẫn nhau, không phân biệt tôn giáo. Vua còn khuyến khích những nhà giáo
dục không phải là Phật tử, và yêu cầu tất cả các trường học dạy cho học
sinh biết đánh giá cao tất cả các tôn giáo. Những người theo Ấn Độ giáo,
Kỳ Na giáo, và các tôn giáo khác đều được trọng dụng dưới triều đại của
vua A Dục ngang bằng với những người Phật tử. Vua nhận định rằng: Làm tổn hại tôn giáo của người khác là tự hủy hoại tôn giáo của chính mình.
Nền văn minh mới mẻ của vua A Dục đã bị phai nhạt dần và trở thành
huyền thoại trong vòng 50 năm sau khi vua băng hà. Và Ấn Độ giáo dần dần
chiếm ưu thế ở Ấn Độ; Phật giáo thì phát triển bên ngoài biên giới của
Ấn Độ, tại những vùng đất mà trước đây vua A Dục đã gửi các đoàn truyền
giáo đến.
Và thế rồi, 22 năm sau ngày “Hội nghị Các tôn giáo trên thế giới” tổ
chức vào năm 1893, bức màn của lịch sử đã được vén lên sau hơn hai thiên
niên kỷ, làm lộ ra một nhà lãnh đạo toàn cầu, người đã xây dựng được
một nền văn hóa hòa bình, có tính xây dựng và tôn trọng sự tự do tín
ngưỡng của các tôn giáo kéo dài gần một thế kỷ. Thành tựu của vua A Dục
là sự thúc đẩy cho những ai có những ước mơ tương tự về tương lai của
nhân loại. Tất cả chúng ta đều cần phải học tập các sắc lệnh của vua A
Dục.
Harish Singhal và Paul Chaffee (Theo The Interfaith Observer, 10-2011)
NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ SỐ 188