Tương truyền về linh khí
Chùa Thiên Mụ (còn gọi là Linh Mụ) tọa
lạc trên một ngọn đồi xã Hà Khê (cũ) mặt nhìn xuống dòng sông Hương,
như thể đầu rồng ngoảnh lại, cách Cố đô Huế về phía Tây khoảng 5 km.
Sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1553, đã mô tả về ngôi
chùa: Chùa nằm phía Nam xã Hà Khê huyện Hương Trà, ở trên đồi núi, dưới
giáp dòng sông, cảnh đẹp vượt hẳn ba nghìn thế giới, gần gang tấc với
thiên trì. Khách tản bộ đăng lâm bỗng chốc phát lòng lành, tiêu tan tục
lụy...”.
Tương truyền, năm Tân Sửu (1601), chúa
Nguyễn Hoàng, nhân buổi dạo chơi phong thủy, thấy vùng đồng bằng xã Hà
Khê, có một ngọn đồi cao nổi lên như hình rồng quay đầu nhìn lại, phía
trước trông ra sông dài, phía sau có hồ lớn, cảnh trí rất đẹp, hỏi người
dân địa phương, người ta cho biết: Ngọn đồi này linh lắm, xưa có bà lão
mặc áo đỏ quần xanh, ngồi trên ngọn đồi nói rằng: “Rồi sau sẽ có vị
chân Chúa đến đây sửa núi lập chùa để tụ linh khí, giữ bền long mạch”.
Nói xong bà lão biến mất. Chúa Nguyễn Hoàng cho rằng đất này có khí
thiêng mới lập chùa gọi tên là chùa Thiên Mụ. Đến đời chúa Nguyễn Phúc
Chu (1691-1725), ông là một cư sĩ tại gia thọ giới với ngài Thạch Liêm
hòa thượng, phái Tào Động, pháp danh là Hưng Long, rất chú trọng đến
việc chăm lo kỷ cương phép nước, khuyến khích xây dựng chùa chiền, chấn
hưng
Phật giáo.
|
Nhà sư trẻ đang giữ hạnh nguyện đánh chuông chùa Thiên Mụ |
“Bách bát hồng thanh”
Chùa Thiên Mụ hiện có hai quả chuông.
Một quả chuông được đúc vào năm Canh Dần (1710) đặt trong một ngôi nhà
bát giác phía bên phải tháp Phước Duyên (nhìn từ trong ra). Chuông cao
2,50m, đường kính miệng 1,40m, cân nặng 3.285 cân (tương đương 1.986
kg). Trên chuông có khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu “chú nguyện
mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an”. Tương truyền trong ngày rằm Phật
đản, chú nguyện đúc chuông có hàng trăm quan viên Phật tử đến quy y, thọ
giới đã phát tâm thả vào vạc đồng sôi rất nhiều vật quý giá... bằng một
niềm tin bất hoại.
|
Tháp Phước Duyên |
|
Tháp Đại Lão Hoà Thượng Thích Đôn Hậu |
Chính vì vậy
chiếc chuông
đã mang trong mình cả những giá trị tâm linh và một hàm lượng hợp kim
đặc biệt tạo nên âm thanh ngân nga siêu thoát. Đến thời vua Thiệu Trị,
vua đã cho xây tháp Từ Nhân (sau đổi tên thành tháp Phước Duyên) cao bảy
tầng và xây đình Hưng Nguyện, viết văn bia để lưu giữ công đức xây tháp
và đình. Vua cũng cho xây dựng hai tiểu đình trước Nghi môn để dựng bia
đá khắc bài minh Thiên Mụ chung thanh và đưa chùa Thiên Mụ vào danh mục
20 cảnh đẹp chốn Thần kinh. Trong bài minh, có đoạn: “Bách bát hồng
thanh tiêu bách kết/Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên... (Một trăm lẻ
tám tiếng chuông tiêu tan trăm nỗi oan kết muộn phiền/Ba ngàn thế giới
tỉnh ba duyên...” (ngộ lý duyên khởi của nhà Phật). Chuông này hiện nay
chỉ được đặt như một pháp khí của chùa mà không đánh. Còn chiếc chuông
đang làm nhiệm vụ giữ nhịp thời gian của “tiếng chuông Thiên Mụ” hiện
nay được đúc vào năm Gia Long thứ 14 (1815), đặt trên lầu chuông bên
trái cổng Tam Quan, để đi vào điện Đại Hùng.
Trong thời đại phong kiến, người đánh
chuông chùa Thiên Mụ do Tăng cang (chức danh do triều đình phê chuẩn)
của chùa phân công. Kế tục hạnh nguyện và giữ hồn cho tiếng chuông Thiên
Mụ hiện nay là các nhà sư trẻ đang tu học tại chùa. Thượng tọa Thích
Trí Tựu cho biết từ xưa đến nay, chuông chùa vẫn được đánh mỗi ngày hai
thời (hai lần), vào lúc 19 giờ 30 và 3 giờ 30 sáng. Mỗi lần đánh trong
thời gian một tiếng đồng hồ (60 phút) bằng 108 tiếng chuông để xóa đi
108 nỗi phiền muộn trong thế gian. Theo giáo lý nhà Phật, chúng sinh
trong tam giới (gồm dục giới, sắc giới và vô sắc giới) đều có chung bát
khổ (sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, oán tằn
hội, ái biệt ly khổ và cầu bất đắc khổ). Từ căn bản của 8 điều khổ sẽ
dẫn đến 108 nỗi phiền não được chia nhỏ theo trạng thái tâm lý và tình
cảm. Trong mỗi tiếng chuông của người thiền giả đều mang theo tâm nguyện
từ bi gửi gắm đến chúng sinh giải tỏa mọi muộn phiền đau khổ.
Công phu gõ chuông Thiên Mụ
Cái khó của việc gõ chuông Thiên Mụ là
không phải bất kỳ ai cũng làm được. Tiếng chuông đầu tiên phải cất lên
đúng vào lúc 3 giờ 30 mỗi sáng, đều đặn trong một tiếng đồng hồ và phải
đủ 108 dùi (lần gõ). Với người tu luyện chưa có đủ công phu thì chắc
chắn sẽ không làm chủ được bản thân để mỗi sáng thức dậy đúng và đủ thời
gian để đánh đủ 108 tiếng chuông trong thời gian 60 phút mà không phải
canh đồng hồ hay dùng bất cứ phương pháp nào để giữ nhịp. Mỗi sáng sau
khi thức dậy tĩnh tọa hành thiền, người đánh chuông bước xuống khỏi
thiền sàn và đi trong bước chân thiền từ tăng phòng đến tháp chuông,
đánh tiếng đầu tiên đúng vào lúc 3 giờ 30, không được sai lệch. Giai
thoại thiền môn kể rằng, cố hòa thượng Thích Đôn Hậu là một thiền sư gắn
liền nhiều nhất với hạnh nguyện đánh chuông.
Lúc sinh thời, những khi còn khỏe, hòa
thượng vẫn thường thức dậy đánh chuông hằng đêm và tiếng chuông của
ngài có âm thanh vang vọng thanh thoát một cách lạ thường. Những người
cao niên ở các làng xung quanh khu vực chùa Thiên Mụ như Nguyệt Biều, An
Ninh Thượng, Long Hồ, Ngọc Hồ, Lựu Bảo, Xuân Hoa... cho biết, khi nào
hòa thượng đi vắng hay đau ốm là biết liền. Bởi tiếng chuông được người
khác thay thế là biết ngay; âm sắc và nhịp điệu của tiếng chuông sẽ khác
hẳn. Tiếng chuông Thiên Mụ ngoài âm sắc của tiếng đồng được chế tác
bằng một kỹ thuật đúc truyền thống hoàn hảo, nó được vang xa nhờ vào vị
trí đặt chuông trên đồi cao, lại có dòng sông Hương trải dài như một
chất dẫn truyền tự nhiên huyền diệu... Nhưng trên tất cả những yếu tố ấy
còn có ẩn chứáa một âm sắc vi diệu khó diễn đạt từ chính công phu thiền
định và hạnh nguyện từ bi được chuyển tải trong mỗi tiếng chuông của
người hành đạo.
Ngày nay, trước hàng vạn tạp âm của
nhịp sống đô thị, tiếng chuông Thiên Mụ hằng đêm vẫn giữ nhịp thời gian,
gửi vào trần thế tiếng thiền vi diệu.
Theo Thanh niên