Qua con hẻm nhỏ đường Thạch Bản của cổ
trấn Phong Kiều, hoặc đứng ở đầu cầu Phong Kiều, đưa mắt nhìn sẽ thấy
trên con đường nhỏ quanh co xa tắp, thấp thoáng bóng chùa Hàn San với
tường vàng ngói biếc, sân chùa tùng bách tươi xanh, tọa lạc trong rừng
cây xanh thẳm.
Tấm bia ghi bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của nhà thơ Trương Kế
Trương Kế - Thi nhân đời Đường, khi đi
ngang qua cầu Phong Kiều, nhìn con thuyền trôi lững lờ trên dòng sông
Cổ Vận, nghe tiếng chuông chùa Hàn San đồng vọng ngân nga, ông tức cảnh
sanh tình, làm bài thơ với nhan đề "PHONG KIỀU DẠ BẠC" lưu danh cho đời
sau:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang Phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền
Dịch nghĩa:
Nhạn kêu trăng lặng đêm sương
Bến sông ánh lửa sầu vương thẫn thờ
Hàn San ven ngoại Cô Tô
Tiếng chuông lay tỉnh giấc hồ nữa khuya
(Thích Chiếu Sáng dịch)
Tiếng chuông trong bài thơ thất ngôn tứ
tuyệt này được lưu truyền đến nay đã hơn nghìn năm, ngôi cổ sát Hàn San
nhân đây mà nổi danh trong thiên hạ.
Vào năm Trinh Quán đời nhà Đường
(627-649), theo truyền thuyết, lúc đó có hai vị danh tăng là Hàn San và
Thập Đắc từ núi Thiên Đài đến trụ trì nơi đây, cho nên đổi tên là Hàn
San. Trong hơn 1000 năm qua, chùa Hàn San đã 5 lần bị hỏa hoạn, lần
trùng tu cuối cùng là vào khoảng năm Quang Tự đời Thanh (1875-1908).
Trên lịch sử, chùa Hàn San từng là một trong mười ngôi chùa lớn nổi
tiếng ở Trung Quốc. Trong chùa di tích xưa rất nhiều, có bài văn bia
được khắc trên đá của nhà thơ Trương Kế, có tượng Hàn San Thập Đắc được
khắc bằng đá, những văn bia khắc bị vở của Văn Trưng Minh và Đường
Dần... Trong chùa chủ yếu xây dựng Đại Hùng Bửu Điện, Vũ Điện (kiến
trúc kiểu cung điện), Tàng kinh lâu, Bi Lang, lầu chuông, lầu Giang
Phong v.v...
Tượng Hàn San và Thập Đắc
Bắc Tống Thái Bình Hưng Quốc (tháng 12
năm 976 - tháng 5 năm 978), quan Tiết Độ Sứ là Tôn Thừa Hựu trùng tu
tháp Phật 7 tầng, xưa nơi đây đã từng có tháp, hoặc xem tháp Tổ sư Phổ
Minh là tháp Phật.
Nam Tống Kiến Viêm năm thứ 4 (1130),
quân Kim xâm lăng Nam Tống, những ngôi chùa do nhà nước quản lí và các
nhà dân tại trấn Tây Giao, Tô Châu, trong một đêm bị thiêu sạch. Chùa
Hàn San tuy may mắn thoát khỏi hỏa hoạn, nhưng bị quân binh dày xéo.
"Chư Tăng đều chạy trốn, mái chùa sụp đổ, ngói rơi lả chả trúng vào
người." Nằm ngửa mặt thấy trời, bốn phía vách trống lạnh, sống cảnh như
người chạy nạn. (Theo "Phong Kiều Tự Ký")
Thiệu Hưng năm thứ 4 (1134), có Trưởng
lão Pháp Thiên không rõ từ đâu đến, đích thân thống lãnh đồ chúng,
chỉnh sửa tu bồi, tiết chế y phục uống ăn, chắt chiu từng li từng tí,
nếm đủ mùi gian khổ, gầy dựng vất vả nhọc nhằn, trải qua 12 năm, cuối
cùng khiến cho "ngôi Phạm vũ mới hoàn toàn, có thể duy trì được mấy
ngàn năm". Trong thời gian trùng tu tháp Phật, tiêu phí tài chánh, tiêu
hao nhân lực 3 năm. Xây cất thêm viện Thủy Lục, trang nghiêm u nhã, vì
rường cột Phật pháp mà thấp thỏm không yên. Chùa Hàn San sau khi được
trùng tu, khí thế qui mô đồ sộ, nức tiếng từ xưa đến nay.
Cuối nhà Nguyên (1321-1367) Trương Sĩ
Thành chiếm cứ Tô Châu, chùa Hàn San do Tôn Thừa Hựu trùng kiến, tháp
Phật do trưởng lão Pháp Thiên trùng tu đều bị hủy hoại bởi chiến tranh
binh lửa.
Minh Hồng Võ (1368-1398), có vị tăng là
Xương Sùng trùng tu lại (Bách Thành Yên Thủy). "Cô Tô Chí" nói rằng:
Hồng Võ quy vào tự viện, nhưng liệt vào Tòng lâm. Chùa này (chỉ cho
chùa Hàn San) quy vào ba chùa, bốn am: chùa Tú Phong, chùa Tuệ Khánh,
chùa Nam Phong. Đầu nhà Minh, sau khi pháp sư Xương Sùng trùng hưng thì
chùa Hàn San vẫn còn là Tòng lâm.
Năm thứ ba Vĩnh Lạc, thiền sư Thâm Cốc
Sưởng lại tu sửa. Căn cứ trong "Hàn San Tự Trùng Hưng Ký" của Diêu
Quảng Hiếu ghi: "Thánh Triều Vĩnh Lạc năm thứ 3 (1405), Thiền sư lão
thành Thâm Cốc Sưởng là người đầy đủ giới hạnh đến nhậm chức trụ trì,
từ bàn tay trắng phấn đấu, quyên góp từ đàn việt, cắt đốn gai gốc, thu
dọn gạch vụn, trước hết xây Phật Điện, kế tiếp xây tăng xá, cổng chùa
rồi đến giảng đường, thiền đường, nhà bếp, nhà kho, nhà vệ sinh, rồi
đến những thứ cần thiết trong tự viện Sư đều sắp xếp đầy đủ. Cho đến
đắp các tôn tượng chư Phật, Thích Ca Thế Tôn thờ cúng trong điện đường.
Chánh Thống Kỷ Mùi (1439), Quận hầu Huống Chung trùng tu trở lại (Bách Thành Yên Thủy).
Gia Tĩnh (1522-1566), có vị Tăng là Bổn
Tịch đúc chuông xây lầu, nhưng lại gặp sự cố binh biến của Nhật. Chuông
chưa rõ bị hư hoại lúc nào, về ngày tháng năm của chuông chùa bị hủy có
thể bắt đầu khảo sát ở đây. (Theo: Bách Thành Yên Thủy)
Quang Tự năm thứ 32 (1906), Trần Quỳ
Long trong lúc đi tuần tra Giang Tô, thẩm sát doanh ngũ, ngẫu nhiên đến
Phong Kiều, nhân thấy chùa Hàn San - ngôi cổ sát nghìn năm bị hoang vu,
bèn phát tâm tu sửa: "Chọn ngày lành để chuẩn bị khởi công, mở rộng cửa
để được gần đại lộ. Từ cổng đi vào, rẽ hướng nam, cầu đường gồm 3 dãy,
rồi từ đường tiến vào, có 3 kho dựng đồ riêng biệt. Dãy nhà phía đông
rộng rãi, là nơi nghỉ ngơi của khách. Dãy phía tây thì hơi hẹp, là nơi
đặt để bia cổ của chùa. Những thư sách của Văn Đãi Chiếu (tên của một
chức quan) và thơ của Trương Ý Tôn, đến nay đã bị thất khuyết, nên khắc
lại để bổ sung vào.
Sau cách mạng Tân
Hợi đến năm 1949, trải qua cuộc chiến với bọn quân phiệt, khắp nơi
người dân bị nạn kêu cứu thảm thương. Chùa Hàn San cũng không tránh
khỏi, khói hương lạnh lẽo, ngoài ngõ không người, ra vào đơn độc, chư
tăng tản mát mỗi người một nơi. Mùa thu năm 1941, các ông Cao Quan Ngô
cùng tu sửa Tàng kinh lâu, đổi tên là Sương Chung Các. Lúc lạc thành,
ông Mã Khởi Quyền tặng bức tranh "Hàn Sơn Bôi Độ", có đến 92 người làm
thơ ca ngợi bức tranh này, tất cả 165 bài thơ (Xem: Nghệ Văn). Thời kỳ
quân Nhật xâm chiếm Tô Châu, phòng xá điện đường chùa Hàn San đã trở
thành nơi nhốt ngựa của quân Nhật. Chùa chỉ còn hai ba vị tăng nương
nhau mà sống, nguồn thu nhập chỉ dựa tiền bán cơm và tiền viết liễn,
cuộc sống trôi qua một cách miễn cưỡng
Khoảng năm 1966
đến 1976, tượng Phật, pháp khí, điện các của chùa Hàn San bị tổn hại,
văn vật trong chùa đã bị thanh tra và tịch thu. Pháp sư Tánh Không tìm
mọi biện pháp để bảo hộ, khiến cho các văn bia khắc, tạng kinh, La Hán
... được bảo tồn.
Sau năm 1976, khắp
nơi thi hành chính sách dẹp loạn phục hồi trật tự. Ngày 15/11/1978, ông
Triệu Phác Sơ - Hội Trưởng Hiệp Hội Phật giáo Trung Quốc, Phó chủ tịch
Hiệp nghị Hội thương chính trị toàn quốc, lần đầu đến chùa Hàn San thị
sát và chỉ đạo công tác tu sửa. Ngày 17/11 cùng năm, có 4 vị tăng chùa
Hàn San là: Tịnh Trì, Tánh Không, Quả Phong và Pháp Nhẫn, mặc tăng bào,
theo nghi quĩ Phật Giáo Trung Quốc, long trọng tiếp rước Điền Hồng
Phạm, là đoàn trưởng của "Đoàn giáo dục xã hội Nhật Bản hữu nghị giao
lưu Trung Quốc " gồm 17 tăng ni. Chùa Hàn San từ đây bắt đầu phục hồi.
Năm 1979, sau hội
nghị toàn quốc, số người đến viếng thăm Trung Quốc không ngừng tăng
thêm. Hai pháp sư Tịnh Trì, Tánh Không lần lượt đón tiếp khách ngoại
quốc như các tác gia, các nhà nghệ thuật: Nữ ký giả Hoa Kỳ, vườn nghệ
gia nước Cộng Hòa Liên Bang Đức... , họ đại biểu cho giới trí thức nước
ngoài, họ cũng bày tỏ niềm hy vọng là được hiểu rõ về hiện trạng của
tôn giáo Trung Quốc. Tháng 7 năm này, Chính phủ nhân dân thành phố,ban
Tôn giáo dân tộc chánh thức khôi phục hoạt động, kịp thời triệu tập hội
nghị nhân sĩ giới tôn giáo, nhận chân hàng loạt biện pháp cụ thể về vấn
đề nghiên cứu chính sách tôn giáo. Đồng thời trên hội nghị đã tuyên bố,
sẽ tăng tốc độ công trình chỉnh tu sửa chữa chùa Hàn San, lần chỉnh tu
này sẽ do chính phủ cấp kinh phí. Cùng năm này, chùa đã thỉnh về các
tôn tượng: Thích Ca, Ca Diếp, A Nan, Di Lặc, Vi Đà Bồ tát và Hàn San
Thập Đắc từ chùa Tây Viên về chùa Hàn San để phụng thờ.
Đêm trừ tịch năm
1979, dưới sự phối hợp xướng đạo của Hiệp hội hữu hảo đối ngoại thành
phố Tô Châu, tổ chức hoạt động "nghe tiếng chuông chùa Hàn San" lần đầu
tiên, đối tượng tham gia hoạt động này có khoảng 120 bạn hữu người
Nhật. Để xúc tiến tình hữu hảo Trung Nhật, chùa đã bắt đầu xây dựng một
hình thức mới là phát triển ngành du lịch. Nhân số về sau cứ mỗi năm
mỗi tăng thêm, sự qui mô mỗi năm mỗi mở rộng, ngày này năm này rất ảnh
hưởng và đã trở thành hoạt động của ngày lễ truyền thống hằng năm.
Năm 1986, theo qui
chế Tòng Lâm, chùa đã thỉnh pháp sư Sở Quang, pháp sư Diễn Lâm làm giám
viện, hai vị này chia ra từng khoản mục, kiết thiết sửa sang cơ bản,
hoạt động tôn giáo, tiếp đãi đối ngoại,đối nội. Cục du lịch quốc gia đã
cấp chi phí 50 vạn nhân dân tệ, trùng kiến Tàng kinh lâu 365 m2 Mùa thu năm 1988, khởi công xây dựng khu sinh hoạt, diện tích kiến trúc 670 m2
Năm 1990, pháp sư
Thu Sảng lãnh trách vụ giám viện, năm này cũng đã hoàn thành viên mãn
công đức phết vàng 500 vị La Hán, kiến trúc đình Văn Chung.
Năm 2001, lần lượt
hoàn thành các công trình lợp ngói lại Hoằng Pháp Đường, chỉnh tu phòng
khách và trai đường, đại tu Tàng kinh lâu... dựng bia thơ "Phong Kiều
Dạ Bạc". Ôn Tánh Trân - tín sĩ Đài Loan và gia quyến hiến cúng một lư
hương lớn bằng đồng, do công ty Trung Hoa Thanh Đồng Đại học giao thông
Thượng Hải chế tạo, nặng 5 tấn, để chỗ đất trống phía sau điện Thiên
Vương.
Tháng 8 năm 2006,
qua sự tiến cử của Pháp sư Tánh Không, Hiệp hội Phật giáo phê chuẩn,
Pháp sư Thu Sảng tiếp nhận chức Phương trượng. Pháp sư là người tu học
cần mẫn, đạo tâm kiên định, tích cực hiệp trợ Phương trượng Tánh Không,
quản lý tự viện rất tốt, không ngừng hoàn thiện các công trình xây
dựng, pháp sư đã đem hết sức mình để phát huy công năng cho ngành du
lịch văn hóa tôn giáo của tự viện. Sư tiếp nhận chức Phương trượng chùa
Hàn San, thể hiện đầy đủ chính sách tự do tín ngưỡng của tôn giáo.
Ngoài ra Sư còn kế thừa thư pháp của thầy, tác phẩm thư pháp của sư
được đánh giá, triển lãm trong và ngoài nước. Hiện là Ban quản trị Hiệp
hội Phật giáo tỉnh Giang Tô, Phó Hội Trưởng Hiệp Hội Phật giáo thành
phố Tô Châu, Hội Trưởng Hiệp hội Phật giáo thành Phố Côn Sơn, Ủy viên
Hiệp thương Chính trị thành phố Giang Tô.
Cuối năm 2006, Cục
Sự Vụ Tôn giáo Dân tộc thành phố Tô Châu, qua sự nghiên cứu thảo luận
của Hiệp Hội Phật giáo thành phố Tô Châu, quyết định mời pháp sư Thu
Sảng - phương trượng chùa Hàn San kiêm nhiệm trụ trì chùa Trùng Nguyên.
Tháng 3/2007, lấy pháp sư Thu Sảng làm tăng đoàn đầu tiên và chính thức
tiến vào chùa Trùng Nguyên, khai triển toàn diện pháp vụ Phật giáo và
xây dựng nền văn hóa Phật giáo tự viện, thành tựu một đạo tràng Phật
giáo có đủ Tam bảo Phật Pháp và Tăng.
Pháp sư Thu Sảng - Phó Hội Trưởng Hiệp Hội thành phố Tô Châu, đương kim trụ trì chùa Hàn San
Doanh Châu (truyền thuyết: núi Tiên ở Đông Hải)
Tương truyền tiếng
chuông chùa Hàn San là độc nhất vô nhị, sự cảm xúc đã gợi hứng cho rất
nhiều thi nhân qua các triều đại, nhưng nổi bậc vẫn là bài thơ "Phong
Kiều Dạ Bạc" của thi sĩ Trương Kế. Kiệt tác này hiện là pháp bảo vô giá
của Hàn San, được khắc trên bia đá sừng sững giữa trời thi gan cùng tuế
nguyệt.
\