Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
HUYỀN THOẠI VỀ KHO BÁU CHĂM Ở THÁP CỔ BÌNH ĐỊNH
12/09/2011 07:50 (GMT+7)


Bí ẩn của tháp Chàm

Theo Viện Khảo cổ học Việt Nam, di tích văn hóa Chăm được phân bổ đều khắp trên dải đất các tỉnh duyên hải miền Trung, từ vĩ tuyến 11 đến 18, từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận. ở Tây nguyên, các di tích Chăm cũng xuất hiện rải rác ở các địa phương như: Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Lâm Đồng. Bình Định xưa kia từng là kinh đô của Vương quốc Chăm, hiện ở đây vẫn còn lưu lại 14 ngôi tháp cổ. Những cuộc khai quật tự phát của cư dân đã tìm thấy nhiều di vật cổ có giá trị như buồng cau, lá trầu, những vật thờ cúng bằng vàng... nằm sâu dưới lòng đất từ cả ngàn năm nay. Bình Định thuộc vùng Vijava từ thế kỷ X đến XV, từng là kinh đô của Chămpa (1000-1471). Cùng với thành Chà Bàn, hàng loạt công trình tôn giáo cũng đã được xây dựng ở đây. Khác với di tích Chăm ở Quảng Nam rất tập trung, các di tích ở Bình Định lại được xây dựng rải rác khắp nơi. Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh: Bánh ít, Dương Long, Hưng Thạnh, Cánh Tiên, Phú Lốc, Phú Thiện, Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra, còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, An Thành, Uất Trì và hàng loạt tác phẩm điêu khắc - những phế tích của tháp Chàm như giếng cổ hình vuông, rắn Naga, trụ văn bia, tượng thần điểu Garuđa, phù điêu Lăng Ông, tượng tu sĩ, khu mộ cổ... đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, thành phố Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong khi canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa Phật Lồi. ở Quy Nhơn, hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Chăm tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Vương quốc Chămpa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi tháp cổ với những kiểu kiến trúc, chạm trổ độc đáo, bí hiểm. Ở khu vực duyên hải miền Trung hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi tháp cổ lớn nhỏ.

Và con tàu gặp nạn...

Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les Tours kiames de la Province de Binh Dinh như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá...".

Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp). Đến tháng 10.1995, sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển..., R. Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R. Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ XX, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương - Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến đi định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách cùng hàng tấn cổ vật bằng vàng và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorbio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorbio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thỏi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.

Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại... kho báu mà tàu Mêkông có nhiệm vụ đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijava từ Quảng Nam đến Bình Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Vương quốc Chămpa.

Những thỏi vàng ròng biến mất

Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở thành phố Quy Nhơn, có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng, đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí... Truyền thuyết cũng cho biết rằng, người Chăm sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Chămpa được các nhà khoa học Pháp nhắc đến từ khá lâu. Kho báu cuối cùng - nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chămpa đã được đề cập trong tác phẩm Un royaume disparu - Les Chams et leur art - 1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Chămpa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Chàm cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng: Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại.

Ngàn năm còn một chút này...

Tháp Đôi được xây dựng vào cuối thế kỷ XII còn được gọi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được Nhà nước xếp vào danh mục những di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Chămpa. So với các ngọn tháp khác trong vùng, Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng, đến nay các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra lý do của sự khác thường này.

Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng "Tây Sơn hạ đạo" để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long. Ngày xưa người Pháp gọi đây là Tháp Ngà, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 m. Các hệ thống cửa phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy, nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại, chúng ta liên tưởng đến những nghệ nhân Chăm đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ XII. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ Văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi, tháp Dương Long là tháp Cánh Tiên và tháp Bánh ít. Tháp Cánh Tiên được người Chăm xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo tài liệu của người Pháp, tháp Cánh Tiên còn được gọi là Tháp Đồng, nhưng vì sao có tên gọi này thì vẫn chưa xác định được. Tháp cao khoảng 20 m, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi tháp cổ một dáng vẻ độc đáo. Khác với tháp Cánh Tiên, cụm tháp Bánh ít có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh ít bởi vì khi đứng từ xa nhìn lại, cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai - một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là Tháp Bạc. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 20 km. 4 ngôi tháp cổ này đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Chăm cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước). Người dân ở đây kể lại rằng, thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Chàm Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất. Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995, ngọn tháp này đã được Nhà nước xếp hạng di tích. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Chàm khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc. Người Pháp đặt tên là Tháp Vàng. Phú Lốc nằm giáp ranh giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 m so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp Hòn Chuông ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp cổ này cùng nhiều tháp Chàm khác đang đòi hỏi có sự trùng tu.

Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Chàm mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng ở đó còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần được làm sáng tỏ.

Nguồn:Tạp chí hoạt động khoa học by Bi - Mi

Các tin đã đăng:
Về đầu trang