Ông
là người có tâm tính bộc trực, luôn kính Phật trọng Tăng, thân cận bạn
đạo, được nhiều người quý kính. Những bước đi của Phật giáo Việt Nam,
với ông, là sự sống. Bởi ở đó, ông đã gắn bó, đã đồng hành qua từng giai
đoạn, là chứng nhân của nhiều sự kiện quan trọng… Nhớ lại, một thời,
trầm ngâm bên chén trà nóng, câu chuyện của ông kể sinh động như mới
diễn ra vào ngày hôm qua…
“… Khi đất nước chưa bị chia cắt bởi
Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) thì Phật giáo ba miền Bắc - Trung - Nam
đã từng có cuộc họp thống nhất tại chùa Từ Đàm (Huế). Khi ấy tôi còn là
một thanh niên trẻ, một Phật tử thuần thành, yêu đạo, yêu dân tộc.
CS.Tống Hồ Cầm (giữa) cùng các bạn đạo
chung làm Phật sự trước chùa Từ Đàm, Huế
“Trải
qua nhiều năm, tôi thấy thời nào cũng có các vị nhân sĩ trí thức, cư sĩ
hoạt động bên cạnh các vị giáo phẩm và họ đã có nhiều đóng góp tích cực
trong các công tác Phật sự. Do vậy, nên chăng trong cơ cấu của Hội đồng
Trị sự cần bổ sung và đưa nhiều nhân tố trẻ, cư sĩ, nhân sĩ yêu Phật
giáo để họ đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển Giáo hội. Theo Phật dạy
thì trong chúng hội đồng tu thì có bốn chúng đồng tu (Tăng-Ni-cư sĩ
nam-cư sĩ nữ), nên việc cơ cấu nhân sự là nhân sĩ, trí thức vào những vị
trí quan trọng cũng là giúp cho tứ chúng hòa hợp, hoạt động mỗi ngày
mỗi hiệu quả hơn” - (Cư sĩ Tống Hồ Cầm) |
Khi Hiệp định Giơ-ne-vơ hình thành thì hai miền Nam -
Bắc bị chia cắt bởi dòng sông Bến Hải (Quảng Trị). Đến khi đất nước được
thống nhất (năm 1975) thì Phật giáo hai miền đã có những mong muốn
thống nhất qua các cuộc vận động các hệ phái trong cả nước để đi đến Đại
hội thống nhất Phật giáo toàn quốc tại Hà Nội (7-11-1981). Ngày đó cũng
là ngày mà chư Tăng Ni và Phật tử khắp ba miền nhất tâm hoan hỷ.
Lúc
bấy giờ Đại hội suy tôn Đại lão HT. Thích Đức Nhuận vào ngôi vị Pháp
chủ Hội đồng Chứng minh, đã bầu Đại lão HT.Thích Trí Thủ làm Chủ tịch
Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các hệ phái đều hiện diện
trong tổ chức Phật giáo mang tên GHPGVN.
Tôi
nghĩ rằng, lòng mong mỏi thiết tha được thống nhất Phật giáo hai miền
Bắc-Nam là nguyện vọng chung của các hệ phái cả nước mà nhờ ngày thống
nhất đất nước mới có cơ hội và điều kiện để hình thành thống nhất thật
sự tổ chức GHPGVN.
Tôi còn nhớ, những ngày đầu đó, bản thân tôi đã
cùng với đạo hữu Tăng Quang, đại diện cho Hội Phật học Nam Việt, là hội
đoàn thứ 9 tình nguyện gia nhập vào ngôi nhà chung của GHPGVN. Từ đó đến
nay, trải qua nhiều lần đại hội, các nhiệm kỳ, tôi đã xuyên suốt là Ủy
viên Kiểm soát của HĐTS T.Ư GHPGVN nên nhận thấy nhiều bước phát triển
trong tiến trình đưa Phật giáo hội nhập vào đời sống cũng như giao lưu
văn hóa Phật giáo cùng các tổ chức Phật giáo trên thế giới.
Là người chứng kiến, sống cùng với những đổi thay
của dân tộc, đồng hành cùng đạo pháp… tôi rất vui vì mình đã có phần nào
đóng góp những việc làm hầu mong dâng lên chư Phật tấm lòng chân chính
của một cư sĩ tại gia. Đó là tấm lòng phụng sự, không một mảy may tâm
niệm gì khác.
Những ngày đầu thành lập, Tăng Ni và Phật tử cả
nước đều nhất tâm kiến tạo, bảo dưỡng ngôi nhà chung mỗi ngày mỗi tốt
hơn. Nhất là với sự lãnh đạo của chư tôn đức giáo phẩm đạo cao đức trọng
làm bóng cây che mát cho Phật giáo đi lên, hòa cùng với sự phát triển
của dân tộc.
Những năm tháng khó khăn chung đó, nhiều chư tôn
đức Tăng Ni đã xông xáo cùng với xã hội thúc đẩy cho kinh tế đất nước đi
lên. Đấy cũng là một trong những biểu hiện căn bản của tính hội nhập
ứng biến cùng dân tộc của đạo Phật, của những người con Phật.
Phật sự ngày một phát triển theo đúng định hướng
trong Hiến chương của Giáo hội. Sự kế thừa liên tục của các vị lãnh đạo
GHPGVN, sự đoàn kết cũng như phát huy hết năng lực của các Ngài đã góp
phần to lớn cho sự phát triển của GHPGVN. Đó cũng là góp phần đưa đạo
Phật đến gần quần chúng hơn.
Qua những bước hướng dẫn thiết thực, dài ngày của
chư tôn đức giáo phẩm lãnh đạo các giáo phái là kết quả vô cùng quý giá
cho sự hình thành rộng rãi, phù hợp của Giáo hội. Và cũng trên tinh thần
sống đạo của các Ngài đã làm cho đạo Phật trở thành gần gũi mật thiết
cùng toàn dân. Tôi cũng như các bạn cư sĩ cùng thời luôn có một niềm tin
tưởng là hàng giáo phẩm kế thừa sẽ thích ứng với hoàn cảnh phát triển
tiến bộ của đất nước để góp phần đưa Giáo hội phát triển, hội nhập đúng
với truyền thống văn hóa của Phật giáo.
Công tác hoằng pháp rộng rãi, sự giao lưu giữa các
hệ phái được tích cực phát huy trong một tổ chức thống nhất đã giúp sự
học hỏi, hấp thụ của Tăng Ni, Phật tử trở nên sâu rộng hơn. Đó là những
điều đáng mừng mà tôi nhận thấy sau 30 năm Giáo hội hình thành, phát
triển.
Ngày càng có nhiều vị Tăng Ni trẻ
được học hành cao ở trong nước cũng như ra nước ngoài. Đó là cơ hội để
Phật giáo Việt Nam tiếp cận với Phật giáo thế giới ở những nước tiên
tiến. Niềm hy vọng và ước mong lớn của tôi là những vị Tăng Ni được đi
học cao về Phật học có thêm thực tu, thực chứng và trở về kế thừa công
việc của Giáo hội.
Từng là Phó Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt
Nam tại TP.HCM nhiều nhiệm kỳ trước đây, tôi luôn tâm niệm công tác đào
tạo Tăng Ni tài đức cho Giáo hội là niềm ưu tư lớn của chư tôn đức Giáo
hội chúng ta. Trong đó, bậc thầy khả kính, HT.Thích Minh Châu, nhà giáo
dục lỗi lạc, chính là vị thầy có nhiều ưu tư mà tôi nghĩ các vị Tăng Ni
trẻ nên nhớ tới Ngài, để cố gắng quyết tâm kế thừa hiệu quả cho Giáo hội
chúng ta.
Tại tòa soạn Báo Giác Ngộ, nơi tôi đang công tác,
với cương vị Phó Tổng Biên tập hiện nay có rất nhiều hoạt động từ thiện
xã hội, tổ chức các chương trình dành cho giới cư sĩ, Phật tử trẻ như
Hội trại, Tiếp sức mùa thi… Đó có thể là một gợi ý để Giáo hội thiết kế
thêm những chương trình hoạt động đưa hình ảnh Phật giáo đến với số
đông…”
(Chúc Thiệu ghi theo lời kể của CS.Tống Hồ Cầm)