Lấy thân mình bảo vệ Đạo pháp, ngọn đuốc soi đường cho những kẻ tăm tối
Để
rồi không lâu sau đó, ngày 01-11-1963 cũng là ngày đánh dấu sự cáo
chung của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm sau 9 năm tồn tại (1954-1963).
Vậy
sự tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng Đức có liên quan gì đến chế độ
Diệm và sự sụp đổ của nó? Đây là vấn đề khiến tôi muốn quan tâm tìm
hiểu.
Hoà thượng Thích
Quảng Đức sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, tỉnh Khánh Hòa, xuất gia
lúc 15 tuổi, tu học tại chùa Linh Mụ - Huế. Trước lúc tự thiêu, Ngài trú
tại chùa Quán Thế Âm - Sài Gòn. Hoà thượng Thích Quảng Đức là người đầu
tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã tự nguyện hy hiến cuộc đời cho
đại nghĩa giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt Sài Gòn,
sáng ngày 11.6.1963.
Khi nói về Hoà
thượng Thích Quảng Đức và sự kiện tự thiêu của Ngài, đã có rất nhiều bài
viết được đăng trên các báo, tạp chí và sách từ trước tới nay. Tuy
nhiên sức sống của ngọn lửa Thích Quảng Đức vẫn còn sống mãi trong lòng
người dân Việt và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới bởi ý
nghĩa lớn lao của sự kiện: không những Ngài đấu tranh cho bình đẳng tôn
giáo mà cao hơn nữa là đấu tranh vì mục tiêu công bằng xã hội lúc bấy
giờ. Tiến sĩ Robert Topmiller (Mỹ) viết: “Ngày nay, “ngọn đuốc sống”
của Ngài vẫn được nhiều người Mỹ quan tâm nghiên cứu. Đó là một đề tài
bất tận đối với khoa học phương Tây”(1).
Vì lẽ đó tôi chọn đề tài: “Ngọn lửa Thích Quảng Đức đấu tranh vì mục tiêu công bằng xã hội” làm bài dự thi của mình.
Trở về bối cảnh
lịch sử những năm 1950-1960 của thế kỷ XX, khi nhân dân miền Nam đang
sống dưới chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và đế quốc Mỹ hết sức đau khổ.
Đồng bào miền Nam và giới tăng ni, phật tử bị chìm trong “9 năm biển
máu” dưới thời Diệm. Một chế độ mà đặc điểm “là hối mại quyền thế, gia đình trị, tham nhũng, khinh miệt thuộc hạ và tàn nhẫn với những đòi hỏi của nhân dân”(2).
Đối với phật
giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành chính sách kỳ thị tôn giáo hết
sức dã man khiến cho giới tăng ni, phật tử và đồng bào miền Nam phải
đứng lên đấu tranh quyết liệt. Chế độ này cũng đã thi hành rất nhiều
hình thức thống trị, đàn áp kiểu thời trung cổ như bị chôn sống, bị
thiên cư, bị nhục mạ...; giới phật tử còn bị vu khống là cộng sản, bị
đặt ngoài vòng pháp luật, tức là sẽ bị khủng bố, tù đày, bắn giết. Xin
lấy một dẫn chứng tiêu biểu để nói lên điều đó: tại Cà Mâu, ngày
27-7-1961, trong lúc 200 đồng bào và sư sãi Khmer họp tại chùa Cao Dân,
xã Tân Lộc để làm lễ nhập hạ, binh lính Diệm đã bắn hàng loạt súng cối
vào chùa làm hơn 20 đồng bào và sư sãi chết và bị thương, chùa bị thiệt
hại nặng.
Như vậy từ trước
tới nay, ngay cả dưới thời thuộc Pháp, chưa hề có một chế độ nào thi
hành chính sách kỳ thị phật giáo khắc nghiệt kiểu như chế độ Diệm. Thế
nên sự phản kháng của tín đồ Phật giáo đối với chính sách áp bức của
chính quyền Ngô Đình Diệm có lúc được thể hiện ngấm ngầm, nhưng không
kém phần quyết liệt để bảo vệ tôn giáo truyền thống của họ.
Ngày
9-5-1963, tại Sài Gòn, dưới hình thức một “Lá tâm thư”, gởi toàn thể
Tăng, tín đồ, giới lãnh đạo Phật giáo đã vạch trần chính sách bất công
của chính quyền Ngô Đình Diệm trong suốt 9 năm thống trị, rằng: “Phật
tử chúng ta (cả xuất gia và tại gia) có nơi bị chôn sống, bị vu khống,
bị tù đày, bị thiên cư, bị nhục mạ, ngày nay lại thêm cái tát đau đớn
nữa là lá cờ Phật giáo Quốc tế - linh hồn của Phật giáo - bị hủy bỏ ngay
ngày kỷ niệm Đấng Giáo chủ của chúng ta, đến nỗi cuộc hy sinh vì đạo đã
phải diễn ra tại Huế”; đồng thời kêu gọi “toàn thể Phật giáo đồ, không
phân biệt xuất gia hay tại gia, người Việt hay ngoại kiều, hễ ai còn
nhiệt huyết vì đạo, chúng ta hãy tự bình tĩnh, luôn luôn muôn người như
một, sẵn sàng bảo vệ đạo, chết vì đạo”(3).
Cuộc tranh đấu
của Phật giáo năm 1963 không phải chỉ nói lên sự bất bình đẳng về tôn
giáo mà còn là sự đọa đày bất công của người dân miền Nam Việt Nam dưới
một chế độ tôn giáo ngoại lai độc tài bù nhìn Ngô Đình Diệm. Biến cố
Phật Giáo năm 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly đã quá đầy. Với cái
nhìn thoáng qua chiều dài lịch sử như thế giúp chúng ta hiểu hơn cuộc
tranh đấu do Phật giáo khởi xướng không những của toàn dân miền Nam Việt
Nam mà là cuộc tranh đấu của những người yêu chuộng tự do, bình đẳng và
công bằng xã hội trên khắp thế giới.
Công bằng xã hội
đã được Đức Thế Tôn khẳng định như là một quy luật xã hội, cô đọng lại
trong lời dạy nổi tiếng, mang tính vượt thời gian: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”(4).
Từ khi quy
ngưỡng giáo lý Phật đà cách đây hơn hai ngàn năm, người Phật tử Việt Nam
qua bao thế hệ không chỉ hằng mơ ước mà đã xả thân cho mục tiêu công
bằng xã hội, trong đó phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963
được xem như là một trong những sự kiện lịch sử tiêu biểu nhất. Ngay từ
khi phong trào bắt đầu (7-5-1963), Phật giáo Việt Nam đã đặt vấn đề công
bằng xã hội một cách cụ thể:
Về mục tiêu: “Bình
đẳng và tự do cho tín ngưỡng Phật giáo (trong phạm vi nhân quyền); về
đối tượng: “Chỉ phản đối chính sách bất công, không coi Chính phủ, nhất
là không coi Thiên Chúa giáo là kẻ đối lập”(5).
Từ chủ trương
đó, trong cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế về chùa Từ Đàm (Huế) vào sáng
ngày 8-5-1963, Tăng Ni và Phật tử đã đưa cao các biểu ngữ: “Cờ Phật giáo Quốc tế không thể bị triệt hạ”; “Phật giáo đồ chỉ ủng hộ chính sách bình đẳng tôn giáo”; “Yêu cầu Chính phủ thi hành chính sách tôn giáo bình đẳng”; “Phản đối chính sách bất công, gian ác...”(6).
Giới lãnh đạo
Phật giáo Việt Nam cho công bố bản Phụ đính của “Bản Tuyên ngôn ngày
10-5-1963”, trong đó khẳng định lại một lần nữa mục tiêu cuộc vận động: “Tranh
đấu cho lý tưởng công bình, chứ không phải tranh đấu với tư cách một
tôn giáo chống một tôn giáo”. “Có bình đẳng tôn giáo sẽ có bình đẳng về
mọi mặt. Bình đẳng tôn giáo chẳng phải là thực chất thiết yếu của dân
chủ, tự do ư? Phật giáo Việt Nam đã hiểu rõ nhu cầu của dân tộc và đặt
cuộc vận động trong cuộc đấu tranh của dân tộc”(7).
Cuộc đấu tranh
của giới tăng ni phật tử diễn ra rất nhiều hình thức theo phương châm
bất bạo động như rước linh, biểu tình, tuyệt thực... Tuy nhiên, chính
quyền Ngô Đình Diệm càng trở nên phản động hơn, ngoan cố hơn trước những
mưu cầu nguyện vọng thiết thực của Phật giáo. Cuộc đấu tranh vì mục
tiêu công bằng xã hội của Phật giáo Việt Nam càng lúc càng đứng trước
tình thế “ngàn cân treo đầu sợi tóc”. Trong tình hình đó, giới lãnh đạo
Phật giáo không còn cách nào khác, buộc phải chấp nhận hạnh nguyện tự
thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Ngày 11-6-1963,
Hòa thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng tự thiêu giữa đường phố Sài Gòn
trước sự chứng kiến của hàng chục vạn Tăng Ni, Phật tử cùng nhiều quan
sát viên, báo chí quốc tế.
Trong các bút
tích để lại, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã nói rõ hạnh nguyện tự thiêu
của Ngài là nhằm đẩy lùi bất công và xây dựng công bằng xã hội.
“Vì sự bất công tôi thiêu xác
Khói hồn nguyện độ cảnh hàm oan”.
Hoặc:
“Khói thơm cảnh tỉnh bao người ác
Tro trắng phẳng san hố bất bình”(8).
Đấu tranh vì mục
tiêu công bằng xã hội ở Hòa thượng Thích Quảng Đức chứa đựng một tinh
thần vị tha cao cả, rộng lớn của giáo lý Phật giáo: “Trước khi nhắm
mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình
Diệm, nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân, hãy thi hành chính
sách bình đẳng tôn giáo để nước nhà vững yên muôn thuở”(9).
Hòa Thượng Quảng
Đức hiến dâng đời mình bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của
Tổng thống Diệm và lưu ý cho toàn thế giới. Người đã chịu đựng sự đau
đớn của tia lửa hồng đang đốt cháy da thịt nhưng không một lời kêu than.
Trước khi tự thiêu, Người gởi mấy lời cho Tổng thống Diệm. Đó là tiếng
nói của tình thương, chứa đựng sự giải thoát của nhân dân miền Nam Việt
Nam, yêu cầu Chính phủ Sài Gòn thực thi ngay quyền bình đẳng tôn giáo
cho Phật giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt Nam.
Báo cáo về tôn
giáo của Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
tại Đại hội Mặt trận lần thứ II (1-1-1964) viết: “Trong phong trào
chung của các tôn giáo chống chế độ độc tài phát-xít Mỹ-Diệm và đòi tự
do dân chủ, tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, phong trào đấu tranh
của đồng bào theo đạo Phật vừa qua đã ghi đậm nét trong lịch sử đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân miền Nam”(10).
Trên bình diện
quốc tế, cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam và sự tự thiêu của Hòa
Thượng Quảng Đức vì mục tiêu công bằng xã hội đã thu hút sự chú ý của
hầu hết mọi quốc gia, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức tôn
giáo. Ngay cả Mỹ, tác giả của việc thiết kế chính quyền “Việt Nam Cộng
Hòa” cũng phản đối Diệm về chính sách kỳ thị phật giáo. Vị tha cao cả và
dũng mãnh của Phật giáo đã làm cho “cái chết vô úy của Hòa thượng Quảng Đức là một hồi chuông cảnh tỉnh cho mọi người, một tiếng gọi đàn cho hàng tứ chúng”(11).
Ngày 30-6-1963,
tức hơn hai tuần sau khi Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, trong một
bài giảng tại nhà thờ ở New York, Mục sư Donalds Harrington đã cho rằng
cái chết của Thích Quảng Đức “đã cứu vớt bao nhiêu sinh linh đang
chìm đắm trong khổ hận, kẻ đàn áp cũng như kẻ bị đàn áp đều bừng tỉnh.
Ngài đã tô đậm nét vàng son vào trang sử huy hoàng của Phật giáo và dân
tộc”(12).
Thượng tọa Thích
Nhất Hạnh cho rằng: Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực
chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối. Điều
mà những vị sư đã viết trong những bức thư để lại trước lúc tự thiêu là
nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và để
kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền miên của người
dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà ông đề
cập là tối ư quan trọng... Tu sĩ Việt Nam tự thiêu nói lên với tất cả
sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực nhất
để bảo vệ cho đồng bào của tôi...; để bày tỏ ước vọng bằng cách tự
thiêu của một người. Vì thế, không phải là một hành động hủy diệt mà là
một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết cho người khác. Như
thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử.
Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Kết
tinh trong một vị chân tu những nỗi căm hờn đối với một chế độ độc tài
cá nhân gia đình trị, vô nhân đạo và bạo ngược, hành động dũng cảm của
Hoà thượng Thích Quảng Đức là một bản án không gì bôi được với chế độ bù
nhìn của Mỹ ở Sài Gòn; đồng thời là một lời kêu gọi đồng bào Phật tử
đấu tranh chống phát-xít, dù chết không chịu lùi bước. Thật không phải
thường có những cái chết kích động nhân tâm sâu sắc và rộng rãi như cái
chết của Hoà thượng Thích Quảng Đức”(13).
Phong trào Phật
giáo miền Nam năm 1963, đỉnh cao là sự tự thiêu của Hòa thượng Thích
Quảng Đức tuy mang màu sắc tôn giáo, nhưng thực ra đây là sự vùng lên
của cả một dân tộc nhằm xoá bỏ chế độ độc tài, giáo trị, gia đình trị
Ngô Đình Diệm. Điều cần nhấn mạnh là sự tham gia rộng rãi của mọi tầng
lớp nhân dân không chỉ vì để ủng hộ Phật giáo mà chính là ý thức dân
tộc: “Cuộc lay đổ chính quyền Ngô Đình Diệm 1963 đã động viên không
những được ý thức bảo vệ Phật giáo, mà cả ý thức bảo vệ quốc gia nữa.
Nơi những người Phật tử, hai ý thức ấy hoà hợp với nhau không tách rời
được. Chính rất nhiều phần tử không Phật giáo cũng tham dự cuộc vận động
này, không phải vì để giúp đỡ Phật giáo, mà vì thấy cuộc vận động của
Phật giáo phù hợp với nguyện vọng của dân tộc”. Trên thực tế,
“phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo miền Nam đã vượt khỏi ranh
giới đơn thuần mà hình thành một phong trào yêu nước rộng rãi trong toàn
dân”(14).
Cuộc tranh đấu
Phật giáo năm 1963 không giới hạn trong việc đòi hỏi sự bình đẳng và
quyền tự do tôn giáo mà còn là một cuộc đòi hỏi về sự công bằng xã hội
và quyền được sống an bình trong một quốc gia như bao nhiêu quốc gia
khác trên thế giới. Cuộc vận động vì mục tiêu công bằng xã hội của Phật
giáo Việt Nam 1963 là một sự kiện lịch sử - văn hóa có tầm vóc lớn lao.
Vì thế, cuộc tranh đấu này được toàn dân, toàn quân ủng hộ và thế giới
tán đồng.
Việc tự thiêu
của Hòa thượng Quảng Đức là một đòi hỏi chính đáng. Với tư cách là một
tín đồ phật giáo, Ngài đòi hỏi quyền bình đẳng tôn giáo; với tư cách là
công dân của một đất nước, Ngài đòi hỏi quyền tự do dân chủ cho mình và
cho mọi người. Hành động của Ngài cao cả và dũng cảm biết bao!
Tôi sực nhớ trong tác phẩm Thép đã tôi thế đấy của nhà văn Ukraina - Nikolai A.Ostrovsky có đoạn viết: “Cái
quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần.
Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài,
sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để
khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta
đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh
giải phóng loài người...”.
Đúng vậy! Vốn
quý nhất của con người là sự sống, là tín mạng bản thân. Thế nhưng
Thượng tọa Thích Quảng Đức đã hiến dâng sự sống của mình vì lợi ích của
đại chúng, vì sự nghiệp của dân tộc. Ngài đặt nền độc lập của dân tộc
lên trên hết để giải thoát nỗi khổ của chúng sanh như lời phật dạy. Hành
động của Ngài là một minh chứng lịch sử hùng hồn, bác bỏ mọi quan điểm,
luận điệu của một số người cho rằng cái chết của Ngài chỉ đơn giản là
sự ngông cuồng, cực đoan, sân si, tự tử hay tự sát.
Sự hy hiến bi
hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng như những ngọn lửa thiêng tiếp nối
sau đó đã góp phần làm cho chính quyền Ngô Đình Diệm càng sớm bị sụp đổ,
đúng như triết lý đạo phật đã nói: “gieo nhân nào thì gặp quả đó”. Suy
rộng ra, đối với đất nước, cuộc vận động “bước đầu góp phần làm phá
sản chính sách can thiệp của Mỹ ở Việt Nam, tạo đà cho phong trào cách
mạng miền Nam đi đến thắng lợi trọn vẹn trong đại thắng mùa Xuân 1975”(15).
Từ sự kiện tự
thiêu của Hòa thượng Quảng Đức nêu trên, chúng ta có thể rút ra một bài
học vô giá, đó là: bất cứ một thể chế chính trị nào, nhà nước nào, không
riêng gì Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới, chừng nào không tôn
trọng, không thực thi quyền bình đẳng tôn giáo, tự do, dân chủ cho nhân
dân và công bằng xã hội thì chừng đó không sớm thì muộn sẽ có kết cục
bi thảm như chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Có nghĩa là: cuộc đấu tranh và
sự hạnh nguyện hy sinh của Hòa thượng Quảng Đức là một minh chứng lịch
sử, một bài học kinh nghiệm quý giá cho tất cả các quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam về việc đề ra chủ trương, chính sách và thực
hiện quyền bình đẳng tôn giáo, công bằng xã hội.
Thực tế cho
thấy, lịch sử Việt Nam đã chứng minh từ khi du nhập vào nước ta, Phật
giáo đã có những đóng góp to lớn trong quá trình dựng nước và giữ nước,
đồng thời gắn bó mật thiết với dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
“phật giáo và dân tộc như hình với bóng”.
Việt Nam là một
Nhà nước dân chủ. Nhận thức được ý nghĩa to lớn nêu trên, Đảng và Nhà
nước ta luôn chú trọng và quan tâm đúng mức việc thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo. Thật vậy, từ trước đến giờ, đặc biệt những năm gần
đây, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, đứng ra tổ chức hoặc tạo điều
kiện thuận lợi cho các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo tổ chức rất
nhiều hoạt động có ý nghĩa. Điển hình như Đại lễ Phật đản Quốc tế năm
2008 tại Hà Nội, tổ chức Đại lễ Cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ tại
Thành Cổ Quảng Trị, tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn... Không những
thế, Phật giáo còn có nhiều hoạt động từ thiện đáng quý khác như giúp đỡ
người nghèo, trẻ em mồ côi, người tàn tật... Những việc làm này phần
nào nói lên tinh thần “sống tốt đời đẹp đạo”, phục vụ chúng sinh và đạo
pháp của Phật giáo.
Với tinh thần
thiện nguyện của Phật giáo, với sự lãnh đạo nhạy bén, sáng suốt của Đảng
và Nhà nước ta, tin rằng Phật giáo sẽ ngày càng trường tồn và phát huy
hơn nữa trong sự nghiệp chung tay góp sức xây dựng nước nhà ngày càng
giàu đẹp, hạnh phúc hơn.
Bài dự thi Cuộc thi: viết về Bồ Tát Thích Quảng Đức trong trái tim tôi
--------------------------
Chú thích:
1,2.3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,15:
Lê Cung - “Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963”. Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 1999.