Đối
với các dân tộc Á châu, không ai là chưa từng nghe đến đức Bồ Tát Quán
Thế Âm. Chẳng những thế, truyền thuyết về ngài còn được nhân gian thêu dệt vào những huyền thoại làm tăng vẻ huyền nhiệm, trong đó có sự hiện thân của Bồ Tát Quán Âm Nam Hải.
Theo
huyền sử Tàu thì Diệu Thiện là con gái thứ ba của vua Diệu Trang, một
tiểu quốc cận biên Ấn Độ; Không vâng lời vua theo gương hai người chị là
Diệu Âm và Diệu Thanh lập gia thất mà muốn xuất gia quy Phật; sau nhiều
lần cản ngăn và trừng phạt không thành, vua thuận cho Diệu Thiện vào
chùa, nhưng mật cho các sư ni hành hạ cho Diệu Thiện nản chí mà quay về.
Ni trưởng chùa Bạch Tước báo cáo về triều là công chúa Diệu Thiện vẫn
cam chịu được mọi khó nhọc, một lòng quyết chú tu hành, nổi giận, vua
sai đốt chùa, bắt công chúa về lại triều rồi xử trảm. Nhiều hình phạt
đều bất thành vì được Ngọc Đế sai Thần hoàng bổn cảnh hóa thân cọp cỏng
nàng chạy để bảo vệ nàng. Trong lúc hồn liền khỏi xác, được Diêm vương
đưa nàng đi thăm các cửa ngục hành hình tội nhân. Do uy lực của Diệu
Thiện mà các tội nhân được siêu thoát; Diêm vương được lệnh nghinh tiễn
hồn Diệu Thiện trở lại dương thế. Tỉnh lại, Diệu Thiện hoang mang không
biết đi về đâu, thì được đức Phật khuyên hãy đến núi Phổ Đà ở cù lao Hương đảo Nam Hải tiếp tục tu luyện. Sau 9 năm, Ngài đắc đạo, từ đó được hồng danh là Quan Âm Nam Hải.
Như
vậy Nam Hải là biển phía Nam của Tàu, là phía Đông hoặc Đông Bắc của
Việt Nam. Quan Âm Nam Hải như thế, đối với người Việt cũng có thể gọi là
Quan Âm Đông hải ?
Từ
câu chuyện trên, sang Việt Nam được địa phương hóa như sau: Ngài vẫn là
con thứ ba của vua Diệu Trang nước Hưng Lâm, vẫn bị hành hình khổ nhục
như câu chuyện trên, nhưng khi đi tu thì vào chùa Hương Tích Việt Nam
chứ không phải núi Phổ Đà bên Trung quốc. Đặc biệt là Quan Âm đến Tàu
hay Việt Nam đều biến thành thân nữ, mặc dù Đức Bồ Tát Quán Thế Âm vốn
là thân nam.
Từ
đây, Đức Quán Âm tu ở Việt Nam nên gọi là Quan Âm Nam Hải. Thực ra đây
không phải là vấn đề để tranh cải về Nam hải hay Đông hải, mà là vấn đề
hạnh nguyện của Ngài đã cứu vớt bao chúng sanh lâm nạn kêu cứu đến ngài.
Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nói:
Bấy
giờ trong Pháp Hội, Bồ Tát Vô Tận Ý, Từ tòa ngồi đứng dậy Chắp tay nhìn
Đức Phật Mà cung kính bạch rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn Bồ Tát Quán Thế
Âm ,vì bởi nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm?
Đức
Phật liền chỉ bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: Này các Thiện Nam Tử! Nếu có vô
lượng trăm, nghìn, muôn, ức chúng sanh phải chịu mọi khổ não mà được
nghe danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm liền dốc lòng niệm tên Bồ Tát Quán Thế
Âm tức thì Ngài Quán xét giọng tiếng của người ấy liền được khỏi khổ
não. Nếu được trì tên hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm dù vào trong lửa lớn lửa
không thể cháy được là nhờ sức uy thần của Bồ Tát Quan Âm. Nếu bị nước
lớn trôi mà niệm tên Bồ Tát liền được vào chỗ cạn. Nếu lại có chúng sinh
hàng trăm nghìn muôn ức vì tìm cầu vàng bạc ngọc mã não, trân châu San
hô cùng hổ phách và các thứ ngọc báu, phải vào trong bể lớn. Giả sử bị
mây mù gió dữ thổi thuyền bè giạt vào nước La Sát. Ở trong đám người đó
dù chỉ có một người dốc lòng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm những
người trong thuyền ấy đều liền được giải thoát…
Bấy giờ đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý nếu có các chúng sanh ở trong các cõi nước phải dùng thân chư Phật mới độ được người ấy Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện ra thân Phật…
Này
Ông Vô Tận Ý Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu các công đức đầy đủ là như
thế Ngài dùng mọi thân hình dạo đi khắp các nước để độ thoát chúng sanh.
Bồ
Tát Quán Âm đối với các chúng sanh Ở trong chốn tai nạn nguy cấp và sợ
hãi Ngài đều hay ban cho những điều không lo sợ, cho nên cõi Ta Bà mọi
người đều gọi Ngài Là bậc Thí Vô Úy…
Do
hạnh nguyện đó mà những thương nhân Ấn ngày xưa thường thờ ngài trong
các thương thyền, nạn nhân tù tội, những nạn nhân biển cả, các nạn nhân
trên bờ, hay dưới nước đều thành tâm khẩn cầu và tôn kính thờ phượng
Ngài. Chính vì nguyên nhân nầy mà các quốc gia châu Á đều tôn kính tạo
tượng thờ phượng trong chùa hoặc ngoài sân. Không một ngôi chùa người
Việt nào mà không có bóng dáng đức Quán thế Âm với bạch y, tay cầm nhành
dương và bình cam lồ, mắt nhìn xuống dương thế với khuôn diện nhân ái
và tấm lòng thanh thoát.
Người
Phật tử mỗi khi quỳ trước tôn tượng như cảm thấy được che chở. Tại Việt
Nam hiện nay, hầu hết các chùa , mỗi ngày đều có nhiều thành phần xã
hội thành kính thắp nhang lễ bái trước Bồ Tát mỗi sáng và tối. Chùa Xá Lợi đường Bà Huyện Thanh Quan, công
nhân viên chức, nam cũng như nữ, mỗi sáng trước khi đi làm đều tạt vào
lễ Ngài; Đức tin vào Bồ Tát đã ăn sâu vào máu huyết dân tộc; Đi đâu, dù
lên rừng xuống biển, dù tha phương lập nghiệp, người Phật tử đều tôn tạo
thánh tượng ngài để thờ phụng.
Chính
vì lòng khẩn thiết đó mà hạnh nguyện lắng nghe lời cầu cứu của chúng
sanh, được Ngài luôn chiếu cố. Quán thế Âm là dụng tướng, nhưng Quán Âm
còn có nghĩa của diệu tánh trong mỗi hành giả biết lắng nghe tiếng nói
phàm tục của mình mà tìm cách hóa giải để thăng hoa, đó là công hạnh của
một hành giả Quán âm.
Minh Mẫn
17/7/2012