được vinh dự gặp đức Đạt Lai Lạt Ma và được ngài ban cho một bài
pháp vô cùng tuyệt diệu. Hạnh phúc vì được nghe những lời pháp nhũ và có
được duyên lành vì đoàn không hẹn trước mà lại được gặp ngài trong lúc
ngài vô cùng bận rôn Phật sự lẫn chính sự.
Đoàn Phật tử Việt Nam do thầy Thích
Thông Hạnh, phó viện chủ Trúc Lâm Thiền Viện Thường Chiếu tỉnh Đồng Nai
đi đầu, kế tiếp là thầy Thích Trúc Thông Phổ, phó viện chủ Trúc Lâm
Thiền Viện Tây Thiên tỉnh Vĩnh Phúc và quý tăng ni cùng cư sĩ Phật tử
đến từ Việt Nam, Úc, Canada và Hoa Kỳ.
Vì người tổ chức cuộc hành hương không
làm thủ tục xin một cái hẹn trước bốn tháng, nên khi xuất hiện một cách
đột ngột, đoàn đã bị viên chức sắp xếp lịch trình của văn phòng đức Đạt
Lai Lạt Ma (agenda officer) từ khước đến ba lần, nhưng do sự khép léo và
kiên trì của sư cô Thích nữ Liên Quý, một vị học ni đang học tiến sĩ
Phật học ở viện đại học Delhi, hướng dẫn viên tiếng Việt của đoàn, đoàn
đã dược văn phòng của đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý để Ngài tiếp vào buổi
trưa.
Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngoài cương vị lãnh
đạo tinh thần nhân dân Tây Tạng, ngài còn là quốc trưởng của một nước,
nên muốn được vào tư dinh gặp ngài, khách phải trải qua thủ tục khám xét
an ninh rất gắt gao của cảnh sát liên bang Cộng Hòa Ấn Độ và mất rất
nhiều thời giờ chờ đợi. Mặc dầu vậy, quý thầy cô áo vàng và cư sĩ Phật
tử áo lam chúng tôi cũng rất hoan hỷ sắp hàng một để từng người bước qua
các thủ tục an ninh, khám xét thân thể và các vật dụng tùy thân như khi
vào dinh nguyên thủ các quốc gia khác hay như đi qua các phi trường
quốc tế ở Hoa Kỳ.
Khoảng 12 giờ trưa, ngài ra trước dinh
đón gặp và tự tay trao tặng cho từng người, mỗi người một bức hình tôn
trượng đức Phật thờ tại Đại tháp Bồ Đề Đạo Tràng. Sau đó chụp hình
chung lưu niệm với từng nhóm trong đoàn do đoàn quá đông, và cuối cùng
ngài nói một bài pháp ngắn khoảng năm phút.
Sau lời chào mừng ngắn gọn với đoàn Phật tử Việt Nam, ngài nói ngay rằng: “
Đức
Phật không phải là đấng tạo hóa (Creator). Ngài là một con người bình
thường, đã tu hành và đã giác ngộ viên mãn, và đối với đạo Phật, mọi sự
mọi vật đều do nhân duyên sinh khởi, do tác động của định luật nhân quả:
“
Law of Cause and Effect” .
Ngài nói tiếp rằng “muốn
đạt được hạnh phúc chân thật thì cần phải có một tinh thần an lạc, và
muốn có tinh thần an lạc, cần phải có tình thương và lòng từ bi (love
and compassion), làm sao để chúng ta phát triển được tình thương và lòng
từ ? Chỉ nghĩ đến cũng chưa đủ, chúng ta cần phải làm sao để chuyển hóa
tâm niệm và hành động của mình trong đời sống hàng ngày. Chìa khóa cho
một thế giới hòa bình, hạnh phúc và an lạc bản thân chính là phát triển
tình thương và lòng từ bi.” Ngài cũng nhắc nhở “mỗi người chúng ta đều có Phật tánh và cần nỗ lực thực hành để trờ thành vị giác ngộ như Phật đã thành”. Ngài cũng không quên nhắc nhở Phật tử Việt Nam “nên đọc và thực hành kinh Đại Bát Nhã (Mahà Prajnàpàramità Sùtra), nhất là những phẩm nói về Từ Bi, Trí Tuệ, Ba La Mật Đa (paramitas) và Tánh Không (emptiness)…”
Người viết đã nhiều lần được nghe trực
tiếp các buổi thuyết giảng dành cho Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ, bao giờ
ngài cũng mở đầu bằng cách khuyên nhủ Phật tử Việt Nam hãy giữ truyền
thống tu tập sẵn có của mình mà không nên chạy theo một truyền thống
khác, nhưng đặc biệt lần này ngài không nói như vậy mà ngài đã lập lại
đến hai lần trong một bài pháp ngắn rằng : “Đức Phật không phải là một đấng tạo hóa”.
Có lẽ đây là một thông điệp quan trọng
và ngài chỉ muốn nhắc nhở Phật tử Việt Nam đừng xem ông Phật như một
đấng thần quyền đầy quyền năng sáng tạo, có quyền ban phước giá họa cho
muôn loài. Đừng cầu xin van lạy Ngài (Đức Phật) mà phải nỗ lực tinh tấn
tự thân tu tập. Không biết Đức Đạt Lai Lạt Ma có tha tâm thông không mà
hình như ngài biết rõ tâm của người Phật tử Việt Nam, đa số đều đặt
nặng lòng tin, sùng kính lễ lạy và bái sám cầu nguyện.
Trong một bài pháp ngắn không soạn trước mà ngài đã lập lại hai lần về mỗi từ “Tạo Hóa”, từ “Nhân Quả”, từ “Thực Hành” và nhiều lần về từ “Từ Bi”,
lại nhắc nhở Phật tử Việt Nam nên đọc và thực hành từ bi, trí tuệ, ba
la mật đa (Paramitas) và Tánh Không (Emptiness) trong kinh Đại Bát Nhã.
Ngài không nói chi tiết nhưng qua nội dung bài pháp, dường như ngài
muốn nhắc nhở người Phật tử Việt Nam ba điều:
(1) Đừng xem Đức Phật như là một đấng tạo hóa, có quyền năng ban phước giá họa.
(2) Hãy tin sâu, tin bền và tin chắc về Phật tính, về mỗi người đều có
giác tính, đều có khả năng thành Phật và về nhân quả. Chỉ có tinh tấn tu
tập tự thân mới có thể chuyển hóa được nghiệp quả.
(3) Nỗ lực thực hành Phật Pháp trong đời sống hàng ngày qua việc phát
triển tình thương và lòng từ bi, qua việc thực hành Ba La Mật.
Chỉ với năm phút ngắn mà ngài đã phác
họa một lộ đồ tu tập (road map) cho người Phật tử, nhất là cho người
Phật tử Việt Nam đặt nặng lòng tin, sùng kính lễ bái và cầu nguyện. Sau
khi dứt lời ngài bắt tay từ giã một số Phật tử đứng gần ngài. Các cận vệ
của ngài đưa ngài vào tư dinh, để lại cho đoàn một nuối tiếc. Chúng
tôi, những người cuối cùng đi sau đoàn, lững thững bước từng bước trên
con đường dốc soai soải ra cổng.
Đồng hồ tay tôi chỉ 12 giờ 30 phút rưa
ngày 11-3-2011. Đi một đoạn dường dài 500 cây số từ Delhi đến đây và mất
hơn 4 tiếng đồng hồ chờ đợi chỉ để gặp ngài và nghe ngài nói trong năm
phút quả là đặc biệt, khó có thể tưởng tượng nổi với một người bình
thường. Nếu không thực hành hàng ngày những lời dạy của Ngài mà xem như
cơn gió thoảng thì tiếc lắm thay.
Hai bên dốc, hoa vàng, hoa đỏ đang đua
sắc báo hiệu mùa Xuân đang trở về trên đỉnh Dharamsala. Mùa Xuân trở về
cũng với lễ hội Losar đón mừng năm mới của người Tây Tạng, trở về cùng
với ngày kỷ niệm 52 năm xa xứ. Happy Losar những người bà con, những
người anh em đang sống tha hương, đang mong chờ một ngày quy cố hương.
Tâm Diệu (viết từ Dharmasala 12-3-2011)