TIỂU SỬ
TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG
THÍCH ĐỖNG QUANG
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG CHỨNG MINH GHPGVN,
CHỨNG MINH BTS PHẬT GIÁO TỈNH GIA LAI,
VIỆN CHỦ CHÙA QUAN ÂM
--------------------
I. THÂN THẾ.
Hoà thượng Thích Đỗng Quang, thế danh Nguyễn Văn Minh , sinh
ngày 19 tháng 2 năm Ất Sửu (1925) tại thôn Vĩnh An, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ,
tỉnh Bình Định, thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Cảnh pháp danh Tâm Trọng,
thân mẫu là cụ bà Trần Thị Hanh pháp danh Tâm Thông, Hòa thượng sinh trưởng
trong gia đình nho phong, đạo đức và sùng tín đạo Phật. Thân phụ của Hòa thượng
sau này xuất gia pháp hiệu Thiện Châu.
Thời niên thiếu.
Suốt
thời gian niên thiếu, Hòa thượng sống tại quê nhà và theo học tiểu học, đồng
thời Hòa thượng cũng theo học hán văn tại địa phương. Năm Hòa thượng 19 tuổi
thì thân phụ phát nguyện xuất gia lại chùa Thành Lâm, thôn Hoà Ninh, xã Mỹ An,
huyện Phù Mỹ, nên Hòa thượng thường đến chùa Thành Lâm hầu hạ sư phụ và có nhân
duyên học hỏi giáo lý nhà Phật.
II. XUẤT GIA HỌC ĐẠO.
Chí nguyện xuất trần
Nhờ có thân phụ xuất gia tại chùa Thành Lâm, nên Hòa
thượng thường theo hầu sư phụ, vốn chủng tánh phật đà sẵn có, lại sớm
gieo duyên cùng phật pháp, nên Hòa thượng sớm ngộ lý vô thường, lại được sự
hướng đẫn của thân phụ, nên vào ngày 8 tháng 2 năm Ất Dậu (1945) Hòa thượng xin
xuất gia với ngài Hòa thượng ThíchTrí Hạnh, trụ trì chùa Bảo Sơn, xã Mỹ Thành,
huyện Phù Mỹ và được bổn sư thế độ, ban pháp danh Như Cầu. ( lúc này HT 20
tuổi). Sau khi xuất gia Hòa thượng tiếp tục theo học hán văn và phật học
.
Thời gian học tập.
Với bẫm tính thông minh và hiếu học, nên đầu năm Canh dần (
1950) Hòa thượng được bổn sư cho theo học nội điển tại Tổ đình Thập Tháp, thời
gian được 3 năm thì lớp nội điển ngưng hoạt động vì thiếu kinh phí, Hòa thượng
về gánh vác phật sự tại chùa Chi hội Phật giáo huyện Phù Mỹ. Ngày 2 tháng
9 Nhâm Thìn (1952) Hòa thượng thọ tam đàn cụ túc tại Giới đàn Chùa Thiên Bình,
huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, do HT Huệ Chiếu trú trì Tổ đình Thập Tháp làm
Đường đầu, HT Phúc Hộ trú trì chùa Từ Quang tỉnh Phú Yên làm Yết Ma A Xà Lê, HT
Tâm Đạt trú trì chùa Thiên Bình làm Giáo thọ sư, sau khi đắc giới được Hòa
thượng bổn sư cho pháp hiệu là Thiện Thệ. Sau khi thọ giới Hòa thượng tham dự
khoá kiết đông tại chùa Thiên sanh Thạch tự, HT Bình Chánh làm giám luật. Đầu năm
Ất Mùi (1956) cùng với chư tăng trẻ bộ hành vượt đèo Cù Mông vào học tại Phật
học đường Trung phần, ở chùa Long Sơn, Nha Trang do HT Trí Nghiêm làm Giám đốc,
HT Huyền Quang làm đốc giáo, qua năm Đinh Dậu (1957) vì nhu cầu phật sự tại địa
phương, nên Hòa thượng trở về Bình Định đảm nhiệm chức vụ Hội trưởng Hội
Phật giáo huyện Phù Mỹ và trụ trì chùa Chi hội Phù Mỹ. Cuối năm Canh Tý (1960)
vào dự khoá Kiết đông lại Tổ đình sắc tứ Thiền Lâm tại thị xã Phan Rang,
tỉnh Ninh Thuận do HT Huyền Tân làm Hoá chủ. Sư tư tương hội, ngày 8 tháng 12
Canh Tý, tại Tổ đường Phương trượng Thiền Lâm, Hòa thượng được Đại lão Hòa
thượng Thích Huyền Tân, phú pháp thế độ với pháp tự Hạnh Đắc, pháp hiệu Đỗng
Quang với bài kệ phú pháp:
Cầu chơn vô khử vọng
Chơn vọng diệc viễn ly
Nhược năng ngộ thử lý
Quang minh tại mục tiền
III. HÀNH
ĐẠO.
Đầu năm Nhâm Dần (1962) HT vận động đại trùng tu
chùa Chi hội Phật giáo huyện Phù Mỹ, sau gần một năm trùng tu, ngôi chùa đã
hoàn thành và lễ khánh thành được tổ chức vào cuối năm 1962. Mùa Phật đản năm
Quí Mẹo (1963) chính quyền Ngô Đình Diệm, với chánh sách kỳ thị tôn giáo, đã ra
tay đàn áp Phật giáo, bắt đầu bằng việc triệt hạ cờ Phật giáo, giết hại nhiều
nam nữ sinh viên, học sinh, phật tử, tại đài phát thanh Huế. Hưởng ứng
lời kêu gọi của Tổng hội Phật giáo Trung phần, Hòa thượng là thành viên của
phái đoàn Phật giáo tỉnh Bình Định ra Huế dự lễ truy điệu Thánh tử đạo, cũng
tại chuyến đi này, Hòa thượng tiếp nhận chủ trương của Tổng hội là: Tranh đấu
bất bạo động.
Đến cuối năm 1963, sau khi chế độ Ngô đình Diệm sụp đổ, Hòa
thượng lên hoằng pháp tại tỉnh Pleiku. Năm 1964, GHPGVNTN ra đời, Hòa
thượng được Viện Hoá Đạo đề cử đảm nhiệm chức vụ Chánh Đại diện, Giáo hội Phật
giáo tỉnh Pleiku (cũ) thời gian từ 1964–1966. đồng thời Hòa thượng kiêm
trụ trì chùa Bửu Thắng đến hết năm 1966.
Năm 1965 được ông bà Nguyễn Hạ và Trần thị Hay
phát tâm cúng dường nhà và vườn cây cà phê cho Hoà thượng, với mong
muốn xây dựng nơi đây một ngôi chùa, để làm nơi lễ bái cho Phật tử địa phương,
cũng như thờ phụng ông bà sau khi quá vãng. Ngày 19 tháng 9 năm Ất Tỵ 1965, Hoà
thượng khai sơn xây dựng Quan Âm Bảo điện tức chùa Quan Âm ngày nay. Năm
1966-1968 Hòa thượng đảm nhiệm Phó Ban Đại diện Phât giáo tỉnh
Khánh Hòa.
Từ năm 1972 đến 1974 Hoà thượng làm Đặc uỷ Tăng sự Ban Đại
diện Phật giáo tỉnh Pleiku (cũ), từ năm 1975-1981, Hoà thượng làm Quyền Chánh
Đại diện Phật giáo tỉnh Pleiku. 1977 Hòa thượng làm đệ tứ tôn chứng tại
Đại giới đàn Quảng Đức, do GHPGVNTN tổ chức tại chùa Ấn Quang.
Năm 1982 khi Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Gia Lai – Kom Tum được
thành lập Hoà thượng được suy cử làm Trưởng Ban Trị sự nhiệm kỳ I và lưu
nhiệm cho đến ngày chia tỉnh. Hoà thượng cũng tham gia Uỷ viên Mặt trận
Tổ Quốc tỉnh GiaLai- Kontum ,và Hội đồng Nhân dân tỉnh.
Tại Đại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ II (1987-1992) ngài
được tấn phong lên hàng Giáo phẩm Hòa thượng.
Năm 1999 Hòa thượng được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng Huân
chương: Vì sự nghiệp Đại đoàn kết Dân tộc.
Hiện nay Hoà thượng là thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN,
Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Gia Lai nhiệm kỳ 2 và 3.
Thời gian hoằng pháp tại Gia Lai, Hoà thượng đã có những đóng
góp thiết thực cho Phật giáo tỉnh nhà. Thực hiện sự nghiệp hoằng dương chánh
pháp, báo Phật ân đức, làm tròn sứ mạng của tăng già, Hoà thượng đến nhiều địa
phương trong tỉnh, từ các khu dinh điền xa xôi, đến những vùng kinh tế mới …
nơi nào có nhu cầu, Hoà thượng đều đáp ứng, như tổ chức lễ quy y, thuyết giảng
phật pháp, hay ứng phú đạo tràng, nhằm đưa mọi người trở về với chân lý Phật
đà.
Hoà thượng là một vị giảng sư, với đạo phong uy nghi, tướng
hảo, cách diễn đạt lôi cuốn, nên đã thu hút nhiều thính chúng, từ những pháp
hội này, giúp nhiều người trở thành những phật tử chân chính.
Về ứng phó đạo tràng, Hoà thượng là vị gia trì sư sáng danh,
Hòa thượng còn đào tạo nhiều vị tăng có năng khiếu về nghi lễ, đáp ứng nhu cầu
ứng phú của quần chúng phật tử.
Nhiếp hóa đồ chúng.
Với sự nghiệp truyền đăng tục diệm, noi gót Chư Phật, cùng
các bậc Tổ sư, vì sự nghiệp tiếp dẫn hậu lai, Hòa thượng thế độ nhiều đệ tử
xuất gia, nhưng do thiếu duyên cùng phật pháp nên sau năm 1975 nhiều vị đã hoàn
tục, nay chỉ còn lại các vị như : Hòa thượng Thích Từ Hương, Thượng tọa Thích
Từ Vân và một số vị khác, Hòa thượng quy y cho hàng nghìn đệ tử tại gia tại
thành phố Pleiku cũng như nhiều địa phương trong tỉnh.
Đối
với hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia, công đức hoá độ của Hoà Thượng
luôn còn mãi, hạnh nguyện của Hoà Thượng thật là mênh mông không bến không bờ,
cuộc đời của Hoà thượng là tấm gương cho hàng tứ chúng noi theo.
IV. VIÊN TỊCH.
Hòa thượng sinh ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, học tập ở
nhiều nơi, nhưng hơn nửa cuộc đời Hòa thượng gắn bó với Gia Lai, do vậy tình
cảm của Hòa thượng đối với quê hương Gia Lai vô cùng sâu sắc, hơn 50 năm
Hòa thượng đã sống và làm việc trên mảnh đất này và hôm nay cũng chính trên
mảnh đất Gia Lai thân yêu này là nơi ôm ấp hình hài tứ đại của Hòa thượng trong
kiếp hiện sinh.
Hơn 90 năm hiện hữu trên cuộc đời, hơn 60 năm cống hiến trí
tuệ, tài năng cho sự nghiệp xương minh chánh pháp, giờ đây ý nguyện và công
hạnh của Hòa thượng đã viên mãn. Theo định luật vô thường, sau thời gian lâm
bệnh, Hòa thượng đã được đệ tử và các y, bác sĩ hết lòng điều trị, nhưng do
tuổi cao, sức yếu, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch vào
lúc 8 giờ ngày 7 tháng Giêng năm Giáp Ngọ, tại phương trượng chùa Quan Âm,
phường Trà Bá, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, trụ thế 90 năm, 63 hạ lạp.
Trong cuộc đời hoằng hóa của Hoà thượng, có nhiều thuận duyên
và cũng không ít nghịch duyên, đúng như lời Phật dạy, nhưng tất cả đều là những
yếu tố thử thách, giúp đệ tử của Phật tôi luyện ý chí, nghị lực, củng cố niềm
tin hoàn thành sứ mạng của Trưởng tử Như Lai. Hôm nay, báo thân của Hoà thượng
đã trở về với tứ đại, tất cả chỉ còn lại sự tiếc thương, kính mến.
Nam Mô Tự Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhị thế, Quan Âm đường
thượng, húy thượng Như hạ Cầu, tự Hạnh Đắc, hiệu Đỗng Quang Hòa thượng Gíac
linh tác đại chứng minh.