Trịnh Công Sơn được coi như một trong những nhạc sĩ lớn nhất của tân
nhạc Việt Nam với nhiều tác phẩm rất phổ biến.Mặc dù ông đã mất hơn mười
năm nhưng ký ức về Trịnh Công Sơn vẫn còn sống mãi trong tâm tưởng của
công chúng yêu nhạc Việt Nam. Hơn 600 nhạc phẩm của ông đã lần lượt
chồng lên nhau để xây dựng trong tâm trí người nghe một ngôi chùa, một
ngôi chùa bằng nhạc trong tâm để mỗi người đều biến thành những con
người “hình đồng không xuất gia nhưng tâm niệm lại xuất gia”. Nghe nhạc
Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu
kinh. Có được điều đó là bởi giữa âm nhạc Trịnh Công Sơn và tư tưởng của
đạo Phật đã có một cuộc hôn phối kỳ diệu. Những triết lý Phật giáo thấm
nhuần trong từng nốt nhạc Trịnh Công Sơn. Nó tạo nên cho nhạc của ông
một màu sắc riêng, một dòng khắc khoải mà lại bình yên, thanh thản, một
dòng mát dịu giữa không khí linh thiêng, yên ắng của cõi Chân Như, cõi
sắc-sắc-không-không…
Trong bài viết năm 2001 trên tờ “Nguyệt san Giác Ngộ”, Trịnh Công Sơn
đã nói trực tiếp về những ảnh hưởng của Phật giáo đến cuộc đời và những
sáng tác của ông : “Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn
giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc
kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những năm
tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu
an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có thể
vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô
thức, bên cạnh những di sản văn hoá Đông Tây góp nhặt được, còn có lời
kinh kệ vô tình nằm ở đấy.”
Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là
một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: Tin buồn từ ngày mẹ
cho mang nặng kiếp người, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa.
Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả. Theo Kinh Kim
Cương (Kim cương bát nhã ba la mật kinh), một trong những bộ kinh quan
trọng nhất của Phật giáo, tất cả các pháp hữu vi là “như sương mai, như
ánh chớp”. Đây là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đi, nhắc lại
trong nhiều lời ca của mình. Giống như con chim ở đậu cành tre và một
con cá... trong khe nước nguồn, không ai trong chúng ta là những người
định cư vĩnh viễn, tất cả đều là những người ở trọ trần gian này.
Một đề tài Phật giáo khác trong nhạc Trịnh Công Sơn là thuyết luân hồi. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / Để một mai tôi về làm cát bụi, ông hát trong Cát bụi. Hay Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô, trong Rừng xưa đã khép.
Trong các ca khúc của mình Trịnh Công Sơn có vẻ đồng ý với đạo Phật
rằng “Hiện tại là hình bóng của quá khứ và tương lai là hình bóng của
hiện tại”. Trịnh Công Sơn cũng tỏ ra chấp nhận thuyết luân hồi của nhà
Phật trong những câu mà Trịnh Công Sơn đã làm nhòa nhạt biên giới giữa
đi và về, như trong bài Phôi pha:Có những ai xa đời quay về lại / Về lại nơi cuối trời.
Nếu chết là để đi đến tái sinh thì khi ta ra đi nghĩa là ta trở
lại.Nhìn sống và chết cũng như nhìn nước chảy trên sông và tự hỏi nước
đang ra đi hay nước đang trở về.Đó là ý của Trịnh Công Sơn trong Gần như niềm tuyệt vọng: Những ngàn xưa trôi đến bây giờ / Sông ra đi hay mới bước về.
Theo đạo Phật không có cái ta trường cửu nhưng mà có một chút gì trong
cái ta đã mất được tiếp nối trong cái ta tái sinh. Quá trình này thường
được so sánh như khi ta thắp một cây nến từ một cây nến khác, có cái ra
đi và cũng có cái trở lại, một cõi đi về như Trịnh Công Sơn đã viết
trong bài ca cùng nhan đề.
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là
sự mập mờ và siêu lý luận của các câu văn.Nhạc, lẽ dĩ nhiên là tiếng nói
của con tim không phải là của lý trí nhưng sự xác định này cũng chưa đủ
dể giải thích tại sao Trịnh Công Sơn có vẻ như không muốn làm cho lời
ca rõ ràng.Tôi nghĩ rằng đây là ảnh hưởng của Phật giáo, rằng người ta
không thể chỉ ngồi mà lý luận để đi đến một sự bình an cho tâm hồn, rằng
ý niệm giác ngộ vượt qua biên giới của ngôn ngữ và lý luận.
Trịnh Công Sơn giống như một nhà thiền sư phủ nhận rằng tuyết thì
trắng, quạ thì đen, với mục đích nói lên rằng muốn giác ngộ thì phải
tránh xa cái đối lập giữa “có” và “không” để thành một tổng thể hài hòa.
Lời ca của Trịnh Công Sơn giống như các công án trong Phật giáo, chẳng
hạn như công án nổi tiếng nói về lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay, và
cũng giống như công án, bài hát của Trịnh Công Sơn không thể giải thích
được bằng đầu óc.
Trịnh Công Sơn có ý nói đến thuyết vô ngã trong các bài ca của ông.Ông có nói đến “phụ người” như trong bài Ru em nhưng cái buồn của ông thật ra cũng là cái buồn của nhân thế. Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ (Ru em). “Từ bi” có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna), hai đức hạnh mà theo Phật giáo mình nên tu dưỡng.
Nhạc Trịnh Công Sơn khó hiểu nhưng lời ca của ông có khả năng xoa dịu những tâm hồn bị dao động.“Đóa hoa vô thường” là một bản tụng ca Đức Phật, có thể là Phật Quan Âm. Người nữ ở đây không mười sáu tuổi, không một chiều kia có em buồn buồn, không cười đâu đó trong phố xá đông vui. Một người mà anh đã đi tìm trong xa gần đất trời rộn ràng, trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, tìm trong đàn chim ngậm hạt sương bay. Tìm ngày tìm đêm, bền bĩ một cách lạ thường không bao giờ tuyệt vọng. Và anh đã gặp một người mình hạc xương mai, với nụ cười mong manh. Nàng
tinh khiết như cội nguồn nguyên thủy, nàng ngát hương giữa đôi giòng
kinh. Nàng là Đạo, hay Đạo được anh hoá thân thành Nàng cho gần với Đời.
Và nàng tắm gội dưới mưa bốn bề toả ngát hương trầm. Nàng dạy dỗ anh, tan chảy trong anh.
Đạo thấm vào anh, gần gũi đến nỗi có tôi trong dáng em ngồi trước sân. Từ đó hoa là em, một sớm kia rất hồng, nở hết trong hoàng hôn. Nhờ có kinh đắp bồi, nên từ đó anhlà đêm nở đóa hoa vô thường. Khi
cái Đẹp lên ngôi (lời kinh là những cái Đẹp) thì sự phụng thờ của anh,
một nghệ sĩ suốt đời đi tìm và tôn thờ cái Đẹp, cuộc trùng phùng chỉ là
một tất yếu.
Xưa nay anh ít khi viết nhạc cho một người bạn trai, nhưng “Sóng về đâu?”
là bản nhạc anh Sơn viết tặng riêng Trai. Đó là vào một buổi tối trên
bãi biển Nha Trang, trong tiếng sóng vỗ ầm ì vào bờ cát anh tưởng như
nghe được tiếng thở dài của người bạn trẻ đang đương đầu với con sóng
lớn của cuộc đời. Anh lâm râm niệm một câu kinh Bát Nhã: Yết đế, Yết đế,
Bala yết đế, Bala tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha ! Và thầm thì với biển:
“Biển sóng, biển sóng, đừng xô (bạn) tôi, đừng xô (bạn) tôi ngã dưới chân người”.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như một phật tử đi lại trong cõi
đời bụi bặm để giác ngộ chúng sinh. Giúp họ nhận ra cái vô ngã của con
người và cái hư vô của cuộc đời. Giúp họ bình thản suy ngẫm về sự sống
và cái chết. Giúp họ sống biết yêu thương và tin tưởng, sống từ bi… Tuy
nhiên, cũng không nên hiểu rằng nhạc của Trịnh Công Sơn xui người ta rời
bỏ cõi đời. Nhà Phật không mong có nhiều phật tử xuống tóc đi tu. Và
thấm lời Phật dạy, Trịnh Công Sơn đã tu chính ngay giữa cõi đời: “Không xa đời và cũng không xa loài người Không xa ngậm ngùi và cũng không xa nụ cười Đời cho ta thế hãy cứ cất bước đi với người”
Cõi cuộc đời là hư không nhưng người nhạc sĩ này luôn sống với đời bằng
một tình cảm gắn bó: “Quê hương là nỗi nhớ Đời nhẹ như là thu Yêu càng
yêu quê nhà Yêu những đời bão tố Nhọc nhằn trong nắng mưa” Âm nhạc của
Trịnh Công Sơn là âm nhạc của sự giải thoát nhưng cũng đồng thời là âm
nhạc của sự gắn bó. Có lẽ vì thế mà nó là âm nhạc của sự vĩnh hằng.
Người viết xin mượn lời của ca sĩ Khánh Ly để kết thúc bài viết này:
“[…] từ ông (Trịnh Công Sơn) tôi đã thành danh và quan trọng hơn là từ
ông tôi đã thành nhân.”