Khi nghiên cứu về hình tượng nghệ thuật văn hóa dân tộc, chúng ta
có thể nhận thấy hình ảnh hai vị Thánh cổ truyền của Phật giáo Ấn đã
được chuyển hóa để trở thành hai vị Thánh linh thiêng trong truyền thống
Phật giáo Việt Nam. Ở nước ta, nhất là tại miền Bắc, hai vị Thánh này
là biểu tượng cho hai thực tại của con người: sinh và tử, sự sống và cõi
chết.
Bài nghiên cứu dưới đây vốn viết bằng tiếng Anh cho các độc giả
Tây phương, và các độc giả nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Á châu, đăng
trong tạp chí Arts of Asia (Nghệ thuật châu Á), xuất
bản ở Hồng Kông. Bài tiếng Việt sau do chính tác giả lược dịch và viết
lại để giới thiệu với độc giả trong nước. Tác giả, một tu sĩ Phật giáo,
tốt nghiệp Tiến sĩ tại Đại học Berkeley và hiện là Giáo sư Mỹ thuật tại
một số đại học tại Hoa Kỳ, với hy vọng cùng đóng góp cho việc nghiên cứu
về mỹ thuật Phật giáo Việt Nam, từ Mỹ tác giả đã gửi bài cộng tác về
cho VHPG. VHPG hân hạnh giới thiệu cùng độc giả.
Ngài Cấp Cô Độc, theo như kinh điển và văn chương Phật giáo, là vị
Thánh “bảo hộ trẻ thơ và là người bạn tốt cho những kẻ nghèo nàn cô
thế”, và là một vị đệ tử tại gia nổi tiếng của Đức Phật. Khi du nhập vào
Việt Nam Trưởng giả Cấp Cô Độc đã trở thành Đức Ông, vị Thánh bảo vệ
trẻ thơ khó nuôi dưỡng, và được tôn thờ như vị thần hộ mạng trẻ em trên
cõi thế. Ngài A-nan, vị thị giả của Phật, đã trở thành kẻ cứu độ cho các
oan hồn, các cô hồn và các chiến sĩ trận vong và đồng bào tử nạn và
được tôn thờ như một vị Thánh tăng độ kẻ ở cõi âm.
So với các quốc gia khác ở Á châu, vấn đề nghiên cứu lịch sử phát
triển mỹ thuật ở Việt Nam còn rất mới, nhất là lãnh vực Phật giáo. Một
số học giả về ngành phê bình lý luận lịch sử mỹ thuật thì không rành về
Phật học. Trong khi các nhà nghiên cứu Phật học thì ít ai để tâm nghiên
cứu ngành lịch sử mỹ thuật Phật giáo Việt Nam. Trong quá khứ, một số học
giả rất chú tâm nghiên cứu về văn hóa trống đồng Đông Sơn, đồ gốm Việt
Nam, vẽ tranh đương đại và về y phục của các dân tộc thiểu số. Gần đây,
mộtsố học giả Tây phương viết về một số hình tượng điêu khắc gỗ dựa trên
hình ảnh và tài liệu của một vài chuyến nghiên cứu điền dã ở Việt Nam
hoặc dựa trên một số tượng gỗ sưu tập gần đây ở nước ngoài. Hầu hết các
pho tượng này bị đánh cắp từ các chùa ở miền Bắc Việt Nam, bán lậu ra
nước ngoài và hiện nay được sưu tập hoặc trưng bày ở các sưu tập nghệ
thuật tư nhân hoặc các viện bảo tàng nghệ thuật ở phương Tây. Hình tượng
ngài A-nan và ngài Cấp Cô Độc được nghiên cứu và minh họa trong bài
hiện đang thờ tại các chùa ở miền Bắc. Tác giả bài này có được sự may
mắn và nhiều thuận duyên nghiên cứu và chụp ảnh các tượng của hai vị
Thánh này tại các chùa. Các hình ảnh này chỉ là một phần nhỏ trong bộ
sưu tầm và nghiên cứu hình tượng tín ngưỡng được tôn trí trong bối cảnh
văn hóa và tôn giáo tại địa phương chứ không phải qua các pho tượng được
trình bày tại các viện bảo tàng hoặc qua sách vở.
Các hình tượng đề cập trong bài nghiên cứu này có niên đại từ thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XX. Nói chung, rất khó để có thể đánh giá niên đại
tuyệt đối cho các pho tượng được minh họa trong bài viết này. Tuy vậy,
dựa trên nội dung và niên đại các văn bia dựng ở các chùa nói về các
công trình kiến trúc và trùng tu, chúng ta có thể phỏng đoán một niên
đại tương đối cụ thể về các pho tượng này.
Bài viết bao gồm năm phần. Phần một đề cập tới bối cảnh lịch sử đã
đưa đến sự hình thành và phát triển về tín ngưỡng của hai vị Thánh này
trong không gian thờ tự tại các chùa Phật giáo Việt ở miền Bắc. Phần hai
và phần ba phân tích tổng quát về hai phong cách nghệ thuật qua một số
tượng do tác giả nghiên cứu và chụp hình ở các chùa ở miền Bắc được đề
cập đến trong bài. Phần hai phân tích về phong cách lý tưởng (idealist
style) qua các pho tượng thổ phủ sơn ở chùa Mía, Sơn Tây và chùa Bút
Tháp ở Bắc Ninh. Hai chùa này đều xây vào đầu thế kỷ XVII, do sự tài trợ
của vua Lê chúa Trịnh và hoàng thân quốc thích cũng như các vị cung
phi. Phần ba phân tích các tượng bằng gỗ phủ sơn được tạo hình trong
phong cách nghệ thuật hiện thực (realistic/natural style). Các pho tượng
thờ ở chùa Sùng An, Hải Dương, và ở Hoàng An, tại phường Quảng Bá, Hà
Nội, là các thí dụ điển hình về phong cách hiện thực này. Khi bàn tới bộ
tượng Tánh Tăng và Đức Ông, chúng ta cũng cân nhắc tới trường hợp đặc
biệt ở chùa Thầy, Hà Tây nơi Đức Ông Cấp Cô Độc được thờ chung với Thái
tử Kỳ Đà, và sẽ được đề cập tới trong một tiểu mục sau phần ba. Phần bốn
bàn về những nguồn gốc đã ảnh hưởng đến sự tạo hình của hai bộ Thánh
tượng này. Trước tiên là sự đóng góp của hai vị thiền sư nổi tiếng Trung
Hoa là Chuyết Công và Minh Hành, hai vị sư cuối thời Minh đã đến hoằng
pháp tại Việt Nam, và đã góp công trùng tu một vài ngôi chùa nổi tiếng ở
miền Bắc. Hai ngài đã mang theo các bản in về khoa cúng thí thực và đã
làm sống lại truyền thống chẩn tế thí thực cô hồn.Kế đó, chúng ta so
sánh giữa hình tượng của Đức Ông và hình tượng Quan Công để thấy được
một vài nguyên nhân tại sao tượng của hai vị này tạc giống nhau. Khi bàn
đến truyền thống nghệ thuật và tượng Thánh Tăng và Đức Ông thờ ở chùa,
chúng ta cũng cần đề cập đến các kinh điển quan trọng liên quan đến nghi
lễ chấn tế thí thực, và nội dung các nghi thức này. Do vậy, phần cuối
của bài viết sẽ bàn tới câu chuyện ngài A-nan gặp quỷ đói, và xuất xứ
của hai vị thị giả hầu hai bên. Trong phần này chúng ta cũng đề cập một
cách ngắn gọn nghi thức cúng thí thực mỗi chiều ở các chùa, và ý nghĩa
quan trọng của nó trong tác dụng về mặt tâm linh. Đoạn cuối của phần năm
sẽ tóm tắt nghi lễ bán khoán con thơ cho Đức Ông ở chùa.
* * *
Khác hẳn với các chùa chiền và tự viện ở các nước Đông Á, tại miền
Bắc nước ta ngài A-nan và ngài Cấp Cô Độc được tôn thờ như hai vị Thánh.
Người miền Bắc thường tôn xưng ngài Cấp Cô Độc là Đức Ông, và thờ ngài
như vị thần bảo hộ già lam và bảo vệ bình an cho trẻ em nhi đồng. Ngài
Cấp Cô Độc là vị đệ tử tại gia nổi tiếng của Phật, đồng thời là một
người hộ đạo mạnh mẽ khi ngài còn tại thế. Trưởng giả Cấp Cô Độc đã dùng
tài sảnh mình mua khu vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà để xây dựng Tu
Viện Kỳ Hoàn tại thành Vương Xá cho Đức Phật Thích Ca và Tăng đoàn của
ngài. Tên thật của ông là Tu Đạt (Sudatta), nhưng vì ông hay giúp đỡ bố
thí cho kẻ nghèo nàn, kẻ khốn cùng, và trẻ mồ côi, nên ông được quần
chúng quý mến và tôn xưng là Trưởng giả Cấp Cô Độc. Trong cộng đồng Tăng
lữ, ông nổi tiếng là người ủng hộ đức Thế Tôn hết lòng về mặt của cải
vật chất, và là người cố công xây dựng và bảo trợ Tu Viện Kỳ Hoàn. Do
vậy, trong quá trình lịch sử phát triển Phật giáo, ông Cấp Cô Độc được
tôn thờ là vị thần ủng hộ già lam (già lam có nghĩa là chùa chiền), và
là một cư sĩ lý tưởng và gương mẫu cho hàng Phật tử tại gia. Trong
truyền thống Phật giáo Việt Nam tại miền Bắc, các bậc cha mẹ thường đến
chùa lễ bái và cầu nguyện với Đức Ông như vị thần bảo vệ an lành, khỏe
mạnh cho các trẻ thơ. Các bậc phụ huynh tin rằng ngài là một Phật tử tại
gia, có vơ con và tài sản nhà cửa nên ngài có thể hiểu một cách thấu
đáo va thông cảm sự lo lắng và cầu mong của người đời. Xét chung, ngài
Cấp Cô Độc là một vị cư sĩ duy nhất được thờ ở chùa. Nói một cách khác,
ngài không phải là Phật, là Bồ-tát, hoặc các đại đệ tử xuất gia của
Phật, như chúng ta thấy các tượng thờ trong Phật điện. Điểm đặc biết
khác là các khách thập phương, tín chủ, ngay cả Phật tử thuần thành và
tín tâm nhất cũng cảm thấy rất gần gũi và thân thiết với ngài, và nhiều
người khi đến chùa lễ bái lại dâng cúng cả rượu bia, thuốc lá thơm và đồ
mặn trên bàn thờ ngài.
Các chùa Việt Nam, đặc biệt là các chùa ở miền Bắc, ngài A-nan được
thờ với ba chức năng. Thứ nhất, ngài được kính ngưỡng là vị thị giả của
Phật, đồng thời là vị Tổ sư thứ hai trong Thiền tông. Về chức năng thứ
nhất này, ngài được mô tả như một vị Tăng trẻ tướng hảo quang minh, diện
mạo trang nghiêm, và được thờ tại Phật điện, đứng phía bên phải Đức
Phật. Đối diện bên kia là ngài Ma-ha Ca-diếp, vị Tổ thứ nhất của Thiền
tông Ấn Độ. Ngài Ca-diếp được mô tả như một vị lão tăng, mặt mày khắc
khổ phản ảnh hạnh tu đầu đà của ngài. Hai hình ảnh này tương phản và hỗ
trợ nhau, một già một trẻ, môt tu theo lối khổ hạnh, một tu theo kiểu
tri thức thích được nghe nhiểu hiểu rộng, ưa chuộng đa văn. Tượng của
hai vị đại đệ tử và là hai vị tổ Thiền tông đầu tiên này được thờ ở một
số chùa lớn ở miền Bắc như chùa Quán Sứ, chùa Bà Đá, chùa Kim Liên ở Hà
Nội, chùa Tây Phương ở Hà Tây. Về chức năng thứ hai, ngài được thờ như
một vị có đức lớn lao đối với Ni giới và chỉ thờ trong các chùa Ni.
Trong truyền thống Ni giới, các vị Tỳ kheo ni nhớ công ơn ngài A-nan có
lòng cầu khẩn với Đức Phật cho nữ giới được xuất gia, do vậy các bậc Ni
trưởng đã lập tượng ngài thờ ở Tổ đường. Tuy vậy trường hợp này hơi
hiếm, và thiếu phổ thông trên mặt các pho tượng của ngài thờ ở các chùa
Ni. Tại Hà Nội chỉ có chùa Đức Viên gần chợ Hôm thờ ngài A-na theo chức
năng này, còn đa phần vẫn thờ Sơ tổ Thiền tông Trung Quốc là ngài Bồ-đề
Đạt-ma ở Tổ đường. Về chức năng thứ ba, đồng thời một phần chính có liên
quan đến bài nghiên cứu này, ngài A-nan được gọi là Thánh Tăng, và được
thờ như vị Tăng gương mẫu cho đoàn thể xuất gia. Quan trọng nhất là
ngài được kính trọng như vị Thánh Tăng siêu độ cô hồn, và là vị chủ sám
trong nghi lễ thí thực. Trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, ngài
A-nan được thờ nhiều nhất tại các chùa ở miền Bắc về chức năng thứ ba
này.
Xét trên phương diện lịch sử, hình tượng ngài A-nan và ngài Cấp Cô
Độc được đề cập đầu tiên trong văn bia thời Mạc (1527-1592). Theo bia
văn chùa Đại Bi tại tỉnh Hải Dương dựng vào năm 1592, tướng Nguyễn Văn
Trạch cùng phu nhân Lê Thị Ngọc Toàn đã bỏ tiền của trùng tu chùa Đại Bi
cho được trang nghiêm tráng lệ hơn xưa. Gia đình ông cũng đã cúng chín
pho tượng Phật, bốn pho tượng Bồ-tát, tám pho tượng Kim Cương, mười tám
pho La-hán, hai pho Hộ Pháp, ba pho Thánh Tăng cô hồn và bảy pho tượng
gỗ trưởng giả. Ba pho Thánh Tăng cô hồn được ghi trong văn bia này có
thể là tượng ngài A-nan và tượng Bà-la-môn và Tiêu Diện trong bộ tượng
ba vị này. Còn các tượng trưởng giả đề cập trong văn bia có thể là
Trưởng giả Cấp Cô Độc và hai vị thị giả.
Vào triều đại nhà Mạc, các vị vua và hoàng hậu, hoàng thái hậu, các
vị công chúa, hoàng tử, và thân tộc nhà Mạc đã bỏ tiền của trùng tu các
ngôi chùa đổ nát sau nhiều năm chiến tranh và đã có công đức kiến tạo
thêm nhiều ngôi chùa mới. Theo các học giả và các nhà nghiên cứu Việt
Nam, tiền được được dựng thêm trước Phật điện là một đặc thù của thời
Mạc. Đây là một kiến trúc mới mà theo các học giả này, trước thời Mạc,
chùa Việt Nam chưa có tiền đường. Khi tòa nhà tiền đường được xây thêm
vào công trình kiến trúc mới, các vị sư tăng đã thờ thêm tượng các vị hộ
pháp, thần già lam, 18 vị La-hán. Vào thời Lê Trịnh (1599-1788), chùa
chiền cũng đươc mở rộng thêm có quy mô hơn. Các chúa Trịnh, cùng cung
phi, phi tần, và các vị trong dòng tộc nhà chúa, cũng như các quan lại,
thân hào và hương hào trong làng, tiếp tục trùng tu tự viện quy mô và
tráng lệ hơn xưa.
Một điểm khá quan trọng cần nêu lên ở đây là Thánh Tăng A-nan và Đức
Ông Cấp Cô Độc được thờ phổ thông ở các chùa miền Bắc, nhưng rất hiếm
thấy thờ ở các chùa ở miền Trung và miền Nam. Điểm này phản ảnh nguyên
nhân chính trị vào thế kỷ XVII và XVIII khi đất nước Việt Nam chia cách
làm hai miền. Đàng Ngoài dưới sự thống trị của chúa Trịnh trên danh
nghĩa phò Lê, diệt Nguyễn. Tại Đàng Trong, chúa Nguyễn Hoàng đã lập
nghiệp tại Thuận Hóa (ngày nay là tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên), đây vốn
là đất cũ của Chiêm Thành. Dươi sự lãnh đạo của các chúa Nguyễn, các
phần đất miền Trung và toàn bộ đất đai các tỉnh miền Nam vốn là đất của
nước Chiêm Thành và Cam-bốt dần dần bị các vua chúa nhà Nguyễn xâm chiếm
và biến thành đất nước Việt ngày nay. Theo các tư liệu văn bia, các
công trình khảo cứu, cũng như tư liệu khảo cổ về kiến trúc chùa chiền,
chúng ta biết rằng ngài Thánh Tăng A-nan và Đức Ông Cấp Cô Độc được bắt
đầu thờ vào bán thế kỷ XVI và thịnh hành nhất vào thế kỷ XVII và XVIII.
Đây là thời điểm Trịnh Nguyễn phân tranh, chúa Trịnh trị vì miền Bắc,
chúa Nguyễn cai trị miền Nam. Cũng cần nhắc rằng khi quan sát hệ thống
thờ tự tại các chùa ở miền Trung và miền Nam, chúng ta thấy rằng đại đa
số các chùa thờ ngài Tiêu Diện đại sĩ, và vị thần Hộ Pháp Vi Đà ở tiền
đường, chứ không phải ngài A-nan và Cấp Cô Độc.
Trong cách bài trí tôn tượng ở các chùa miền Bắc, ta thấy tượng thánh
A-nan và tượng Đức Ông Cấp Cô Độc được đặt bên phải và bên trái của tòa
tiền đường. Bàn thờ ngài A-nan thường thường đặt phía bên trái (phía
Tây), còn bàn thờ của ngài Cấp Cô Độc đặt phía bên phải (phía Đông) của
tiền đường. Cách bài trí, phong cách nghệ thuật, niên đại và vật liệu
tạo tượng của hai vị này luôn luôn tương xứng nhau. Thí dụ, nếu tượng
ngài A-nan có quỷ Tiêu Diện và vị Bà-la-môn làm thị giả hầu hai bên, thì
tượng ngài Cấp Cô Độc ở bệ thờ bên kia cũng có hai vị quan văn và quan
võ đứng hầu. Nếu bàn thờ bên trái chỉ tôn trí tượng Thánh Tăng A-nan
không có thị giả, thì bàn thờ bên phải cũng tôn trí tượng ngài Cấp Cô
Độc, rất tương xứng với bàn thờ bên kia. Cách bài trí này theo một quy
luật thống nhất tại các chùa ở miền Bắc. Riêng tại chùa Thầy ở Sài Sơn,
Hà Tây, ngài Cấp Cô Độc cùng thờ chung với Thái tử Kỳ Đà phía bên phải
nhà tiền đường. Tại đây chúng ta không thấy có án thờ ngài Thánh Tăng
A-nan (hình 16), có thể ngài Từ Đạo Hạnh, vị Thánh tổ của chùa, là vị
Thánh Tăng thờ ở đây. Chúng ta sẽ bàn tới vấn đề này ở cuối phần tư của
bài.
Lý do tại sao tượng của hai vị này được tôn trí tại tòa tiền đường
cần được giải thích. Đứng trên phương diện lịch sử mà bàn, một số học
giả Việt Nam như giáo sư Hà Văn Tấn, Chu Quang Trứ, Đinh Khắc Thuân và
TRần Lâm Biên nhận định rằng tòa nhà tiền đường được dựng thêm vào toàn
bộ kiến trúc của tự viện tại miền Bắc Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI và
đầu thế kỷ XVII. Các vị hộ thần như hai vị Hộ Pháp, Thánh Tăng A-nan,
trưởng giả Cấp Cô Độc, thần Thổ Địa, Thập điện minh vương, Tứ thiên
vương, tám vị thần Kim Cương, 18 vị La Hán, v.v…được đưa vào thờ ở tòa
kiến trúc mới này. Đứng trên phương diện tâm linh mà bàn, chúng ta thấy
rằng ở các chùa thường cúng cháo thí thực cô hồn vào buổi chiều. Trong
phần nghi lễ cúng thí thực, có một đoạn vị chủ lễ phải rời bàn Phật và
tới tụng kinh và cúng cháo trước bàn thờ Thánh Tăng A-nan. Theo kinh
điển Phật giáo, các cô hồn quỷ đói còn mang nhiều nghiệp xấu ác tạo từ
kiếp trước và khi đầu thai làm ngạ quỷ bị quả báo ác nên sinh ra thân
thể xấu xa ghê tởm, bụng to miệng nhỏ. Do vậy, khi các chùa cúng thí
thực vào mỗi buổi chiều, các loài quỷ đói khát khổ sở này chỉ có thể đến
bàn thờ ngài A-nan để nghe kinh, nhận thức ăn và nước uống, và không
được đi vào điện Phật nơi thờ các vị Phật và Bồ-tát. Kinh điển cho rằng
hai vị Hộ Pháp đứng thờ hai bên không cho các cô hồn và quỷ đói vào
chánh điện. Đứng trên khía cạnh thực tế mà bàn, chúng ta thấy bàn thờ
Đức Ông được tôn trí ở tòa tiền đường bởi vì nhiều tín chủ của chùa
thường đem rượu bia và các thức ăn mặn thành tâm dâng cúng trên bàn thờ
ngài. Rượu bia và các thực phẩm lễ vật mặn thường thường bị nghiêm cấm
trong các chùa Phật giáo Đại thừa, và những thứ lễ vật này tuyệt đối
không được dâng lên điện Phật, hoặc cúng dường chư Tăng. Bởi những lý do
này, bàn thờ Thánh Tăng A-nan và Đức Ông Cấp Cô Độc được đặt ở tòa tiền
đường, chứ không phải trong Phật điện.
Tượng Ngài A Nan – chùa Sùng Ân
(Kỳ tới: Tượng Thánh Tăng và Đức Ông chùa Mía và chùa Bút Tháp: biểu hiện truyền thống nghệ thuật lý tưởng)
Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 60