Đức vua Trần Nhân Tông,
người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, sau khi nhường ngôi cho con,
Ngài xuất gia tu hành khổ hạnh lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, xưng là
Trúc Lâm Đại sĩ. Cuối đời Ngài tu và hóa Phật tại am Ngọa Vân, được
xưng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác
Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.
Ngay sau khi Phật Hoàng viên tịch,
vâng theo di chúc Bảo Sát đã tiến hành hỏa thiêu Ngài ngay tại Am Ngọa
Vân. Pháp Loa, tổ thứ hai của Thiền Phái Trúc Lâm đến tưới nước thơm lên
giàn hỏa, thu được ngọc cốt và hơn 3000 viên ngọc xá lỵ. Ngọc cốt được
an trí vào lăng Quy Đức (hay còn gọi là Đức lăng), một phần xá lỵ thu
được lưu giữ tại tháp Phật Hoàng ở Ngọa Vân, phần còn lại được đưa về
lưu giữ tại Bảo tháp chùa Tư Phúc trong Đại Nội (cấm thành Thăng Long),
sau đó được phân thành nhiều phần lưu giữ ở nhiều nơi để nhân dân và
phật tử thờ phụng, các nơi có lưu giữ xá lỵ của Phật Hoàng gồm:
Phật Hoàng tháp tại Ngọa Vân: Am, chùa
Ngọa Vân dưới thời Trần thuộc An Sinh vốn là đất thang mộc của An Sinh
vương Trần Liễu, thời Lê thuộc xã An Sinh phủ Kinh Môn, nay thuộc thôn
Tây Sơn, xã Bình Khê huyện Đông Triều. Theo sách Tam Tổ thực lục “Tháng 5
năm 1307 Điều Ngự lên tu trong một am nhỏ trên núi Ngọa Vân (卧 雲 峯)”,
và giờ Tý ngày 1 tháng 11 năm 1308 Ngài hóa tại đây. Sau khi Ngài hóa
các đệ tử của ngài tổ chức hỏa thiêu Ngài ngay tại am, thu xá lỵ và ngọc
cột rước xuống thuyền vua đưa về kinh đô Thăng Long. Tại Ngọa Vân, Pháp
Loa cho xây bảo tháp Phật Hoàng (Phật Hoàng tháp) lưu giữ một phần xá
lợi của ngài. Đến thời Lê Trung hưng (thế kỷ 18) tòa bảo tháp do Pháp
Loa xây dựng bị đổ nát, năm 1707 thiền sư Giác Hưng, hiệu là Viên Minh
cho trùng tu xây mới tòa Phật Hoàng tháp bằng đá, phía trước tháp có voi
đá và ngựa đá đứng chầu. Phật Hoàng tháp hiện vẫn còn đứng sừng sững uy
nghiêm trên đỉnh Ngọa Vân, tháp 2 tâng, mặt trước khắc nổi bức đại tự
Phật Hoàng Tháp (佛皇塔), trong lòng tháp đặt một bài vị bằng đá xanh,
trang trí hoa lá và hình rồng, bài vị ghi “Nam mô đệ nhất tổ Trúc Lâm
đầu đà Tĩnh tuệ giác hoàng Trần triều đệ tam Nhân Tông Hoàng đế Điều ngự
vương phật – Nam mô a di đà phật, bài vị thờ Điều Ngự vương phật Đầu đà
Tĩnh tuệ giác hoàng, tổ thứ nhất phái Trúc Lâm, vua thứ 3 triều Trần
Hoàng đế Nhân Tông”. Như vậy, Phật Hoàng tháp chính là nơi lưu giữ xá lỵ
của Phật Hoàng tại nơi ngài đã tu hành và hóa Phật.
Bảo tháp ở Đức Lăng: Sách Đại Việt sử
ký toàn thư và sách Tam Tổ thực lục đều cho biết: ngày 16 tháng 9 năm
Canh Tuất (1310) an trí ngọc cốt vào lăng Quy Đức (hay còn gọi là Đức
lăng), lấy một phần xá lỵ đặt vào bảo tháp ở Đức lăng. Đức lăng được xây
dựng trong khu lăng tẩm nhà Trần xưa thuộc đất Tinh Cương, phủ Long
Hưng, nay là Thôn Tam Đường, xã Tiến Đức huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Khu lăng tẩm này có 4 lăng gồm Thọ lăng của Thượng hoàng Trần Thừa,
Chiêu lăng của vua Trần Thái Tông, Dụ lăng của vua Trần Thánh Tông và
Đức lăng (hay lăng Quy Đức) của vua Trần Nhân Tông và Khâm Từ Bảo thánh
thái hoàng thái hậu. Các vua nhà Trần sau này không xây dựng lăng tẩm ở
đây nữa mà chuyền về An Sinh (Đông Triều). Khu lăng tẩm nhà Trần ở Tam
Đường hiện còn lại 3 gò mộ (lăng) cao to như quả đồi, các gò này được
gọi là Phần Trung, Phần Đa và Phần Bụt (còn goị là Nấm Sỏi), mỗi Phần
hẳn là một lăng tuy nhiên cho đến nay chưa thể xác định các phần này là
lăng của vị vua nào, nhiều người cho rằng Phần Bụt chính là Đức lăng với
suy luận cho rằng Bụt chính là cách gọi khác của Phật vì vậy đây là
lăng của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Các cuộc khai quật thăm dò ở Phần
Bụt đã tìm thấy những viên gạch xây tháp có trang trí hình rồng giống
như loại gạch xây tháp đã được tìm thấy ở tháp Phổ Minh (Nam Định), và
đó có thể là gạch xây bảo tháp của Đức lăng.
Tháp Phổ Minh trong khuôn viên chùa
Phổ Minh: Chùa Phổ Minh được nhà Trần cho xây dựng vào năm 1262, chùa
nằm ở phía Tây cung Trùng Quang phủ Thiên Trường, nơi Thượng hoàng nhà
Trần ở sau khi nhường ngôi cho con. Chùa nay thuộc phường Lộc Vượng
thành phố Nam Đinh, tỉnh Nam Định. Dòng lạc khoản khắc ở tầng 1 của tháp
cho biết, tháp được xây dựng năm Hưng Long thứ 13 (1305), sau khi Phật
Hoàng hóa Phật vua Trần Anh Tông cho cung nghênh xá lỵ của Phật Hoàng về
lưu giữ tại đây. Tháp cao 13 tầng, có mặt bằng hình vuông (5,20m x
5,20m), tầng thứ 11 là nơi đặt hòm xá lỵ của vua Trần Nhân Tông. Theo mô
tả của sách Lịch triều hiến chương loại chí thì khi tiến hành trùng tu
tháp “đã thấy cái hòm to, mở ra xem thì lớp thứ nhất là hòm bằng sắt,
lớp thứ hai là hòm bằng đồng, lớp thứ ba là hòm bằng bạc, lớp thứ tư là
hòm bằng vàng, lớp thứ năm là hòm bằng đá quý, trong để xá lỵ tròn bằng
đầu ngón tay, sắc sáng long lanh, đã trả lại chỗ cũ…”
Thư tịch thời Nguyễn như Nam Định dư
địa chí, Hoàng Việt địa dư nhất thống chí, Đại Nam nhất thống chí đều
cho biết vào thời Tây Sơn (khoảng năm 1789) có việc tháo dỡ 3 tầng trên
của tháp thì gặp một chiếc hòm bằng đá, hòm đã giữ nguyên để xây lại như
cũ. Những năm 80 của thế kỷ 20, khi tỉnh Nam Định tiến hành trùng tu
lại tháp Phổ Minh cũng đã thấy hòm xá lỵ ở tầng 11 như mô tả của sử sách
và hiện nay nó vẫn được tôn trí tại tầng 11 của tháp Phổ Minh. Đây là
hòm xá lỵ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông còn nguyên vẹn duy nhất hiện
biết.
Tháp Đại Thắng tư thiên bên hồ Lục
Thủy: Tháp Đại Thắng tư thiên hay thường gọi là tháp Báo Thiên tòa tháp
nổi tiếng được xây dựng năm 1057 dưới thời Lý Thánh Tông trong khuôn
viên chùa Báo Thiên nằm phía Tây hồ Lục Thủy, nay thuộc khu vực Nhà Thờ
lớn Hà Nội. Sách Tam Tổ thực lục cho biết “tháng 11 năm Kỷ Tị (1329), Sư
(Pháp Loa-TG) lập đàn tràng tại viện Quỳnh Lâm, làm lễ điểm Nhãn tượng
Phật Di lặc, và lấy một phần xá lỵ của Điều Ngự tại tháp Thắng Tư Thiên
(Đại Thắng Tư thiên) đem cất vào tháp đá tại viện Quỳnh Lâm” Như vậy,
trước đó xá lỵ của Phật Hoàng phải được đưa vào tôn trí ở Đại Thắng tư
thiên và đến năm 1329 Pháp Loa lấy “một phần xá lỵ” đem về tôn trí ở
tháp đá Viện Quỳnh Lâm và hẳn nhiên ở Đại Thắng tư thiên còn lại một
phần xá lỵ. Ngày nay tháp Báo Thiên không còn vì thế chúng ta cũng không
còn cơ hội để biết về phần xá lỵ còn lại được lưu giữ tại đây.
Bảo tháp chùa Tư Phúc trong Đại Nội:
Sau khi hỏa thiêu, ngọc cốt và xá lỵ của Điều Ngự được vua Trần Anh Tông
rước về kinh thành. Ngọc cốt để vào bảo khám, xá lợi được chia làm hai
phần để trong bình vàng quản tại chùa Tư Phúc trong Đại Nội. Chùa Tư
Phúc là ngôi chùa rất nổi tiếng trong Cấm thành Thăng Long thời Trần,
đây là nơi trước khi lên ngôi vua, Trần Nhân Tông thường đến ngủ trưa,
một hôm vua mộng thấy trên rốn trổ một bông hoa sen vàng lớn như bánh
xe. Chùa Tư Phúc cũng là nơi các vua và hoàng hậu nhà Trần đến tu hành,
và nghe các tổ của Trúc Lâm giảng Pháp, có thể khẳng định chùa Tư Phúc
là chùa giành riêng cho hoàng gia được xây dựng trong Cấm thành Thăng
Long, giống như chùa Phổ Minh ở Phủ Thiên Trường, dấu vết chùa Tư Phúc
hiện nay không còn, và chúng ta cũng chưa xác định được vị trí cụ thể
của chùa trong tổng thể của Cấm thành Thăng Long.
Tháp Tuệ Quang trên chùa Hoa Yên, núi
Yên Tử: Huệ Quang Kim tháp (慧 光 金塔), hay Tuệ Quang tháp (慧 光塔), hay hiện
nay được gọi là tháp Huệ Quang hoặc tháp Tổ là tháp lớn nhất được nằm ở
khu vực trung tâm Vườn tháp tổ phía dưới chùa Hoa Yên trong quần thể di
tích danh thắng Yên Tử, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Sách Tam
tổ thực lục cho biết ngày 22 tháng 2 năm Bính dần, niên hiệu Khai Thái
thứ 3 (1326), Pháp Loa phụng chiếu của vua Trần Minh Tông đến chùa Hoa
Vân (Hoa Yên) trên núi Yên Tử, tôn trí xá lỵ của Điều Ngự vào Kim tháp
Tuệ Quang. Nhiều người cho rằng tháp này do vua Trần Anh Tông cho xây
dựng, có thể như vậy nhưng sau khi vua Trần Anh Tông mất sáu năm (vua
Trần Anh Tông mất năm 1320) thì xá lỵ của Điều Ngự mới được an trí vào
tháp, có lẽ lúc này tháp mới xây xong. Ngôi tháp hiện còn ở vườn tháp tổ
ngày nay không phải là tòa tháp được xây dựng dưới thời Trần, tòa tháp
này được xây dựng vào thời Lê, pho tượng Phật Hoàng đặt trong tháp cũng
được làm vào thời Lê khoảng thế kỷ 16-17. Đại Việt sử ký toàn thư và Tam
Tổ thực lục cho biết vua Trần Anh Tông có cho đúc hai pho tượng bằng
vàng, một thờ ở chùa Siêu Loại (Gia Lâm), một thờ ở chùa Hoa Yên, nếu
như đến năm 1326 tháp Tuệ Quang mới được hoàn thành thì rõ ràng tượng
vàng do Trần Anh Tông đúc phải được thờ ở trong chùa Hoa Yên giống như ở
chùa Siêu Loại chứ không thể được đặt trong tháp Tuệ Quang vì lúc đó
tháp chưa hoàn thiện.
Bảo tháp tại Viện Quỳnh Lâm: Viện
Quỳnh Lâm là nơi đào tạo tăng tài lớn nhất của Thiền phái Trúc Lâm thế
kỷ 14. Viện Quỳnh Lâm vốn được thiền sư Nguyễn Minh Không xây dựng từ
thời Lý, thế kỷ 12, tại đây ông đã cho đúc một pho tượng Phật Di Lặc
lớn, đó là một trong bốn vật khí lớn nhất của An Nam (An Nam Tứ khí).
Năm 1319, Pháp Loa tôn giả cho mở mang chùa thành Viện Quỳnh Lâm, dưới
sự hỗ trợ về tiền bạc cũng như con người của vua Trần Anh Tông và các
vương hầu, quý tốc nhà Trần, đặc biệt Thuận Thánh Bảo từ hoàng thái hậu
(vợ vua Trần Anh Tông) và Trần Quang Triều, Quỳnh Lâm trở thành một Tự -
Viện lớn gồm Chùa và Viện, trong đó Viện là nơi đào tạo tăng tài lớn
nhất của Thiền phái Trúc Lâm và đây cũng là nơi có thư viện lớn lưu trữ
nhiều kinh sách Phật Giáo. Tự Viện Quỳnh Lâm cũng là nơi thường xuyên
lui tới của hoàng tộc nhà Trần và các quý tộc đương thời, nơi đây thực
là chốn tùng lâm thế kỷ 14.
Không chỉ có vậy, Quỳnh Lâm còn là nơi
diễn ra nhiều sự kiện Phật Giáo lớn do Hoàng gia và tổ Pháp Loa chủ
trì, tháng 3 năm 1325 Pháp Loa tổ chức lễ hội nghìn Phật tại Quỳnh Lâm,
lễ hội diễn ra trong bảy ngày bảy đêm đồng thời khơi công xây dựng hai
tòa tháp để cung nghênh xá lỵ của Phật Hoàng về tôn trí tại chùa, năm
1329 tháp hoàn thành, rước một phần xá lỵ từ tháp Đại Thắng tư Thiên về
tôn trí vào hai bảo tháp.
Quỳnh Lâm viện nay là chùa Quỳnh Lâm,
xã Tràng An huyện Đông Triều, mặc dù hai tòa tháp đã bị phá hủy nhưng
những dấu ấn của nó vẫn còn lại trên và trong lòng đất của chùa, đặc
biệt ở tòa tháp bát giác hiện dựng trước gác chuông chùa, hai tầng trên
cùng của tòa tháp chính là phần còn lại của tòa tháp đá do tổ Pháp Loa
cho xây dựng năm 1325.
Như vậy, qua những ghi chép và những
bằng chứng khảo cổ học hiện có có thể xác định hành trình tu luyện, nhập
diệt theo thế sư tử nằm, phân phát xá lị đi khắp nơi của Điều Ngự Giác
Hoàng Trần Nhân Tông là một chuỗi công việc mô phỏng quá trình tu luyện,
viên tịch và phân phát xá lị của Đức Phật Thích-Ca-mâu-ni. Trong chuỗi
sự kiện đó thì Yên Tử là nơi Phật Hoàng tu luyện, giảng pháp, độ tăng và
Ngọa Vân là nơi kết thúc trọn vẹn quá trình tu luyện và thành Phật của
Phật Hoàng Trần Nhân Tông, các nơi khác được lưu giữ xá lợi đều là những
trung tâm lớn về chính trị, kinh tế hoặc tôn giáo dưới thời Trần. Trong
số tám nơi được lưu giữ xá lỵ của Phật Hoàng thì riêng Tự - Viện Quỳnh
Lâm có hai nơi chứa xá lỵ của Ngài. Đông Triều, Uông Bí ngày nay dưới
thời Trần là đất An Sinh quê gốc của nhà Trần đồng thời là Trung tâm của
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nên có đến 4 điểm lưu giữ xá lợi của Phật
Hoàng.
Kỷ niệm 704 năm ngày Điều Ngự hóa
Phật, thiết nghĩ việc quang bá tư tưởng và giá trị di sản của Ngài để
lại là một việc làm cần thiết nhằm bảo tồn và phát huy các di sản của
Ngài cho muôn đời mai sau.
Nguyễn Văn Anh
Hà Nội, Đông 2012