Cõi Phật tâm linh che chở người đời
Ký ức của cụ bà tuổi ngót chín mươi vẫn còn lưu giữ như in trận lụt
kinh hoàng do vỡ đê sông Hồng năm 1945. Với đôi mắt tinh, cụ Hoàng
ngừng nhai trầu hồi tưởng lại trận đại hồng thủy năm ấy: “Nghe tin vỡ
đê, lại đúng năm cả nước gặp nạn chết đói. Lo và sợ lắm! Cả dân làng
dừng việc chạy chợ, kiếm ăn, tất tả về làng tránh lũ”.
Lúc đó nước lũ kéo về, tiếng nước, tiếng mưa gầm réo, nhưng thật kỳ
lạ, nước chỉ bò qua cổng làng, chảy chậm dần rồi dừng lại giữa con dốc
trước cổng Đông. Đường đi vào vẫn khô ráo như thường. " Năm đó, ngoài
mấy con nghé, con bê, lũ gà hoảng loạn không chạy được bị nước cuốn
trôi, còn người già, người trẻ trong làng bình yên vô sự. Dường như một
bàn tay vô hình nào đó chở che!”, cụ Hoàng ngẫm nghĩ, cất tiếng như tự
nói với mình.
Theo sự hướng dẫn của cụ Hoàng, chúng tôi đi trên con đường, ngày
xưa nghe nói đắp bằng đất đỏ, dốc lên dốc xuống quanh co, nay uốn thẳng
rải nhựa dẫn lối lên ngôi chùa kỳ lạ này.
Thế đất cao, chúng tôi phải ngước lên nhìn mới đụng cửa Tam quan. Xin
phép Sư thầy trụ trì, chúng tôi bước vào cõi Phật. Hai bên Đại hùng
Bảo điện trước ban Tam Bảo, hai tượng Hộ Pháp sừng sững uy nghi.
Ông Nguyễn Quốc Quân, một người giữ gien giống gà Mía quý hiếm nổi
tiếng cả vùng mời chúng tôi về nhà chơi và kể lại câu chuyện liên quan
tới ngôi chùa và hai ông hộ pháp. Chuyện cũng ly kỳ không kém trận đại
hồng thủy năm nào.
Trận lũ kỷ lục vẫn in hằn trong trí nhớ cụa Hoàng. Điều cụ thấy
lạ lùng nhất là nước lũ dù có lớn đấy mấy cũng không bò lên đến thềm chùa Mía
Ông Quân kể, năm 1947, Pháp mở trận càn lên vùng đất Mía. Súng
mooc-chê bắn đì đùng. Làng bên nhiều người thiệt mạng. Những ngôi nhà
đá ong bị đạn bắn thủng, tróc lở. Đất đá bị sới tung vung lên trời rào
rào. Dân làng Đông Sàng lũ lượt kéo lên chùa Mía, ẩn nấp sau lưng hai
ông Hộ Pháp. Lạ một điều, đạn giặc như bị bàn tay vô hình đẩy lạc hướng
và không một viên nào rơi vào nổi không gian của chùa, nên không có ai
bị thương”.
Tượng Phật chùa Mía mỗi pho một vẻ, thân thiện như dáng vẻ đời thường. Trẻ con vào chùa nhìn Phật, đêm không mơ mấc mộng mị.
Ông Đức Lợi một thư pháp gia của làng cho biết: “Mỗi độ Tết về, tôi kê
bàn viết thư pháp chữ Hán trước cửa chùa lại trầm ngâm nhớ về tuổi ấu
thơ. Hồi ấy, cứ ra vườn chùa hái chiếc lá na, ấp lên quyển sách trên
tay ông La Hán rồi đọc, bỗng thông minh, học hành minh mẫn hẳn”.
Ngồi chùa Mía linh thiêng, bảo vệ người dân nơi đây tránh thiên tai
Dường như người dân quê nơi đây đều có những kỷ niệm về ngôi chùa
thân thuộc vùng quê họ. Có thể hỏi bất cứ ai, từ già đến trẻ, chúng tôi
cũng có được thông tin về chùa, về tượng phật trong chùa.
Chuông chùa hai tỉnh cùng nghe
Chùa Mía không chỉ đặc biệt bởi nước lũ bò không tới thềm, đạn bắn
không trúng vì nhờ tượng Phật mà còn đặc biệt bởi chiếc chuông có độ
ngân xa không đâu bằng. Ai đến nơi này cũng phải công nhận, mỗi chiều,
từ đỉnh tháp, từng tiếng chuông ngân xa, vượt đất Sơn Tây, bay qua sóng
gió sông Hồng vọng đến đất Phú thọ... Một hồi chuông hai tỉnh cùng
nghe.
Sở dĩ chuông có độ ngân vang lớn như vậy là bởi, thứ nhất
nó được làm từ chất liệu đồng cực tốt với một công thức pha chế đặc
biệt. Hơn nữa, chùa có vị trí cao, trên đỉnh một ngọn đồi cao nhất
trong vùng, chuông lại được đặt trong ngôi tháp vươn vút trời xanh...
Lúc giặc đến, cả làng núp sau hai ông hộ pháp trong chùa, không ai bị thương
Chùa Mía còn đặc biệt hơn bởi huyền thoại về bà chúa
Mía. Chuyện kể rằng, vào khoảng thế kỷ 17, ngôi chùa cổ này vốn có tên
chữ “Sùng Nghiêm Tự” bị hư hỏng, điêu tàn đổ nát. Lúc bấy giờ Cung phi
Ngọc Dung còn gọi là Ngô Thị Ngọc Diệu, trong một chuyến du ngoạn qua
đây, được dân Đông Sàng đón mời vào thăm.
Vốn người làng Nam Nguyễn (Nam An), là phi tần được sủng ái trong phủ
chúa Trịnh Tráng (1623-1657), Cung phi Ngọc Dung từng giúp người dân
trong vùng xây chùa, xây chợ, mở bến đò Hà Tân thông thương kinh tế,
văn hóa hai vùng Sơn Tây - Phú Thọ nên tôn sùng bà là “Bà chùa
Mía”. Thấy chùa Sung Nghiêm Tự hư hại quá nhiều, vào năm 1632, bà đã
đứng ra khuyến mộ thiện nam tín nữ các làng Đông Sàng, Mông Phụ, Cam
Thịnh, Cam Toàn… và các làng thuộc Tổng Mía cũ cùng tôn tạo lại. Từ đó,
ngôi chùa được người dân tôn kính gọi là chùa Mía.
Chùa Mía nằm trên đỉnh một ngọn đồi cao nhất trong vùng
Trải qua năm tháng, Chùa Mía được tu bổ nhiều lần, nhưng
về quy mô, kiến trúc vẫn được giữ gần như nguyên vẹn. Tấm bia dưới gác
chuông ghi năm Vĩnh Tộ thứ ba (1621) nói khá kỹ về việc lập nên và tu
sửa chùa.
Từ những năm đầu đất nước hòa bình, Chùa Mía đã được
công nhận Danh lam thắng cảnh. Tháng 5/2006, ngôi chùa tiếp tục được
Thành hội Phật giáo TP HCM kết hợp với Trung tâm Sách kỷ lục Việt
Namcông nhận là Ngôi chùa chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt
Nam.
Ngôi chùa đã được xếp hạng danh lam thắng cảnh
Chùa có đến 287 pho tượng thờ, trong đó có 174 tượng
bằng đất nung sơn son thếp vàng, 107 tượng mộc và sáu pho tượng bằng
đồng...
Theo Sa Hà - Quách Tám - ĐV