Nơi sinh quán của
Ngài khoảng 1396 năm trước đây địa danh là Buljichon, nay thuộc thôn
Sinwol, thị trấn Amnyang, Thành phố Gyeongsan (Khánh Sơn thị) tỉnh
Gyeongsangbuk-do (Khánh Thượng Bắc đạo), Hàn Quốc. Phụ thân của Ngài là
cụ ông Seol Dam-nal.
Danh
hiệu Wonhyo (Nguyên Hiểu) nghĩa là “bình minh”. Ngài không những là bậc
danh đức tiên phong cho tư tưởng Phật giáo Hàn Quốc, cho tư tưởng của
các nhà triết học tiên phong tại quốc gia này.
Khác
hẳn với cha mình, Ngài chỉ làm quan đến bậc 11 trong 17 bậc quan thời
Silla (Tân La), thưở nhỏ Ngài đã tinh thông võ nghệ, có học vấn hơn
người và luôn mơ ước trở thành một hiệp sĩ Hwarang (nhóm thanh niên
nghĩa hiệp thời Silla).
Trong
chiến tranh quá nhiều người tử nạn, trước cảnh chết chóc do binh đao
loạn lạc, nhận thức được chân tướng của sự vô thường, thế thái nhân tình
đều quanh quẩn trong vòng tương đối mâu thuẫn khổ đau, Ngài tỏ ngộ chân
lý Phật đà và lập chí xuất trần.
Vườn
hoa Bát Nhã thêm hoa, đất Bồ đề thêm người vun xới, năm 31 tuổi Ngài
xuất gia làm Tăng nơi ngôi đại Già Lam Hoàng Long Tự (Hwangnyongsa)
thành phố Gyeongju và được Hòa thượng Bổn sư ban cho pháp danh Wonhyo
(Nguyên Hiểu) có nghĩa là "ánh bình minh tỏa sáng", khi trở thành Tăng
sĩ sinh sống chốn Thiền môn thì Ngài tâm niệm phải làm rạng danh Phật
giáo.
Ngài vân du hành cước khắp các danh lam Tự viện trên toàn
quốc, thâm học lão thông Phật, Nho, Lão tam giáo cửu lưu, chuyên tu tập
Thiền định và nổi tiếng là một người trí tuệ phi phàm. Đạo nghiệp đời
Ngài tỏa sáng muôn phương.
Phát
túc siêu phương tâm cầu học Phật thăng tiến trên đường đạo, Ngài quyết
định xuất dương du học vào thời Đường triều, Trung Quốc. Năm Canh Tuất
(650), lúc 34 tuổi Ngài cùng tăng thân Euisang (Nghĩa Sương) vượt sông
Amnokgang (Áp Lục Giang) hướng biên giới Trung Quốc lên đường cầu pháp
nhưng bị chướng duyên bởi bị hiểu lầm là giáp điệp tại Goguryeo (Cao Câu
Ly) và bị tù giam ở đây mất 1 tháng, chuyến đi này không thành công
nhưng Ngài vẫn giữ chí nguyện kiên cường và quay trở về cố hương chờ
thời cơ.
Năm Canh Thân (660), 10
năm sau dù tuổi đã 45 nhưng một lần nữa Ngài cùng tăng thân Euisang
(Nghĩa Sương) quyết dấn thân dùi mài cầu học Phật, hai người rời
Gyeongju (Khánh Châu) ra đi, lần này trên suốt các nẻo đường Daegu,
Chungju, Yeoju, Pyeongtaek, Hwaseong... đến Dangjuye, lãnh thổ của
Baekje (Bách Tế), qua đường biển để vào nhà Đường, Trung Hoa.
Trên
lộ trình Ngài được chứng kiến biết bao cảnh trần gian ảo mộng, trải
nghiệm sự biến đổi của vạn vật khắp nơi, tiếp xúc với nhiều nỗi buồn vui
sướng khổ của dân nghèo, những người đang chịu cảnh chiến tranh tang
tóc. Khi đến vùng phụ cận của Hwaseong (Hoa Thành) thuộc tỉnh
Gyeonggi-do (Kinh Kỳ đạo) ngày nay, nơi Hải cảng trời tối đen lại gặp
giông bão ập đến, Ngài đã nghỉ qua trọn đêm ở một hang động và công cuộc
du học của Ngài cũng đã dừng lại tại đây. Lúc tỉnh dậy vào buổi sáng
hôm sau, Ngài phát hiện ra nước mình uống hôm qua trong cơn khát chính
là nước đọng trên những bộ xương sọ. Ngài vỡ lẽ thực tế là người ta
không thể nhịn được ói mửa sau khi biết những ngụm nước ngọt và ngon
miệng đến vậy trong cơn khát canh khuya kia là nước đọng trên hài cốt.
Trời
mưa lớn kéo dài, vừa đói khát lại thêm lạnh rét, Ngài đành phải lưu lại
nơi nghĩa địa hoang vắng một đêm nữa. Đêm thứ hai Ngài không thể ngon
giấc được, bởi được biết mình đang ở trong một nghĩa địa cổ xưa và sự
kiện này đã khiến Ngài trầm tư quán tưởng, sau đó Ngài đã tỏ ngộ rằng:
“Nhất thiết duy tâm tạo” Tất cả hiện tượng thế giới thảy do tâm, Tâm
chẳng khác Vật, Vật chẳng khác Tâm, Tâm tức Vật, Vật tức Tâm. . . Toàn
thể vũ trụ đều nằm trong tâm này. Như bóng nào cũng nằm trong gương. Như
sông nào cũng ở trong đại dương. Sự vật nào, phàm thánh nào cũng đều ở
trong Nhất Tâm này và chính là Nhất Tâm này. Sự nhận thức bất ngờ này
làm cho Ngài thấy rõ Tam giới duy tâm, ba cõi duy chỉ là Nhất Tâm “Tất
cả pháp đều là Phật pháp”. Ngài bỏ ý định đến nhà Ðường cầu pháp. Rồi
một lần nữa, Ngài trở lại Silla (Tân La).
Ngài
dù thân là một nhà Sư nhưng cuộc đời phải trả định nghiệp tiền kiếp. Một
hôm Ngài được Vua triệu vào hoàng cung Yoseonkung, nơi đây Ngài được sự
ái mộ của công chúa Yoseok (Dao Thạch), con gái yêu quý của vua Taejong
Muyeolwang (Thái Tông Vũ Liệt vương), vua đời thứ 29 của Silla (Tân
La). Ngài thị hiện kết duyên với công chúa Yoseok (Dao Thạch) và đã hạ
sinh được một người con trai tên là Seolchong (người này khi lớn khôn đã
thành một văn nhân đại học giả nổi tiếng nhất về Khổng giáo, người có
công trong việc phát triển chữ Quốc ngữ Hàn, được liệt vào một trong
thập hiền, tài năng xuất chúng của triều đại Silla). Sau đó Ngài không
mặc tăng phục Cà sa và trở thành một cư sĩ sống bình thường.
Ngài
mang bên mình một chiếc gáo bầu mà giới nghệ sĩ nhân gian thường hay
dùng để đùa nghịch, Ngài dạo quanh khắp các làng quê, vừa nhảy múa vừa
ca hát. Cử chỉ và sự xuất hiện của Ngài lập dị và bất thường.
Dáng
vẻ Ngài rất khôi hài, khiến mọi người gọi Ngài bằng những cái tên như
"Tiểu Tính cư sĩ" hay "Bốc Tính cư sĩ". Ngài đã gõ trên một cái bầu và
hát rằng: “Chỉ có một người không lo âu, không sợ sệt thì thẳng bước
tiến lên và chiến thắng sự luân hồi của sinh và tử”.
Bài : "Vô
ngại ca", giáo lý Phật giáo do Ngài sáng tác thành bài hát đơn giản đã
trở thành tác phẩm tuyệt diệu được phổ nhạc ca hát trên khắp mọi miền
đất nước và những lời Ngài dạy như : "Nếu miệng niệm kinh Phật, tai nghe
lời Phật dạy thì ai cũng có thể thành Phật" cũng đã đi vào lòng người
dân Silla (Tân La). Từ nông phu cho đến thợ gốm, ai ai cũng biết đến
Phật và thuộc lòng câu niệm "Nam Mô A Di Đà Phật", tất cả đều là nhờ vào
công của Ngài, vị cao tăng Silla (Tân La) mở đầu quá trình đại chúng
hóa Phật giáo.
Ngài chọn đời sống bình dân giản
dị, để hòa quang đồng trần, dồn tâm huyết cho việc đại chúng hóa Phật
giáo. Vào thời bấy giờ phần lớn chư tôn đức Tăng Phật giáo được sự kính
trọng của Vua quan và sống trong những ngôi đại tự chùa to, chế độ của
Tăng sĩ sống cao sang như những quý phái.
Ngài thì ăn mặc thô
sơ, sống lang thang trên khắp phố phường. Chính cuộc sống bình dị giản
đơn của Ngài mà rất dễ gần gũi với mọi hạng người bình dân trong xã hội,
Ngài tùy duyên giáo hóa mọi người quy hướng Tam Bảo học Phật pháp. Ngài
được sự kính trọng của Vua quan đương thời, Ngài là một cố vấn tin cậy,
tham mưu cho Vua nước Silla (Tân La) và Triều thần trong việc quốc sách
an dân.
Thời gian này, Ngài cũng là bạn của những người dân bình thường.
Ngài
đã hoàn toàn nhiếp phục được những người dân bình thường, họ đã say sưa
nghe lời giáo huấn của Ngài một cách tự phát. Những người mạc hạng cùng
đinh, thất học, nghèo khổ đi xin ăn lang thang đường phố và ngay cả trẻ
con cũng quý mến theo Ngài học Phật pháp, họ luôn tin tưởng sự dạy dỗ
của Ngài, và họ luôn hy vọng trong tương lai sẽ được vãng sanh về thế
giới Tây phương Cực lạc bằng cách thường trì danh niệm Phật.
Cuối
đời còn lại, Ngài tận dụng thời gian sắp xếp, chỉnh lý lại các nội dung
quan trọng của Phật pháp để viết thành sách. Các tác phẩm của Ngài như :
“Kim Cương Tam Muội Kinh Luận, Thập Môn Hòa Tranh Luận, Di Đà Luận Tánh
Ca. . .” đều thấu tỏ tư tưởng Phật giáo, không nghiêng lệch phiến diện,
trở thành động lực đem lại sự thống nhất cho Phật giáo thời bấy giờ.
Hóa
duyên ký tất, Ta bà quả mãn, thuận thế vô thường, Ngài an nhiên viên
tịch tại ngôi Già lam Hyeolsa (Huyệt Tự) vào ngày 30 tháng 3 năm Canh
Thân (686), năm thứ 6 đời vua Sinmunwang (Thần Văn vương). Hưởng thọ 70
Xuân. Trụ trì 38 Đông. (Sau đó, Seol Chong chủng tử của Ngài đã thỉnh xá
lợi của Ngài về Chùa Bunhwangsa (Phân Hoàng Tự) an vị trong bảo tháp
tôn thờ tại đây)
Sắc thân Ngài tuy không còn
tại thế, nhưng bài hát : "Vô ngại ca" hay tư tưởng "Hòa tranh" của Ngài
đã trở thành công cụ để vỗ về an ủi nổi lòng dân chúng, bách tính trăm
họ đang chịu khổ bởi chiến tranh triền miên và đó cũng là nền tảng cho
sự phát triển Phật giáo đại thừa thời Silla (Tân La). Tư tưởng "Hòa
tranh" của Ngài đã hóa giải những kiến chấp sai biệt, hài hóa hóa các
cuộc tranh chấp, để lột tả được cái nhìn tổng thể của Phật giáo. Sự phản
ảnh xu hướng này, Ngài còn được tôn vinh một danh hiệu HÒA TRANH QUỐC
SƯ.
Sau
khi Silla (Tân La) thống nhất lãnh thổ, 3 giáo phái mới ra đời cộng với
2 giáo phái cũ thời Tam Quốc (Koguryo, Shilla, Paekche) thành 5 giáo
phái, đều là Đại Thừa Phật Giáo, trong đó hai giáo phái nổi bật, đó là
Tịnh Độ và Thiền. Phái Tịnh Độ quảng bá khắp nhân gian, do Ngài Wonhyo
(617-686), vương quốc Shilla (Tân La) xây dựng, biến những cơ sở Tự viện
Phật Giáo thành trung tâm văn hóa giáo dục, dung hợp phương thức hành
trì, triển khai tư tưởng Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Du Già, Trung Quán, chủ
trương hòa nhập với quần chúng, không khép mình giới hạn trong Tự viện
chùa chiền, đôi khi Ngài sống lẫn lộn với đám hành khất để hoằng đạo.
Đức
hạnh và pháp ngữ của Ngài lưu danh vạn thế, mãi mãi được sự tôn kính,
nhân dân đời đời kính yêu và tôn vinh là một vị Cao Tăng của Hàn Quốc.
Hiện những tác phẩm của Ngài được phổ biến tại Hàn Quốc :
1- Đại Huệ Độ Kinh tông yếu (Daehyedo Gyeong Jong-yo).
2- Pháp Hoa Tông yếu (Beophwa jong-yo).
3- Hoa Nghiêm Sớ Tỉnh Tự (Hwaeomgyeong byeongseo).
4- Bồ tát Anh Lạc Bổn nghiệp kinh sớ Tỉnh Tự (Bosal yeongnak bon- Gyeong sobyeong seo).
5- Niết bàn Tông yếu (Yeolban jong-yo).
6- Di Lặc Thượng Sinh kinh Tông yếu (Mireuk sangsaeng Gyeong Jong-yo).
7- Giải Thâm Mật Kinh Sớ Tỉnh (Haesimmilgyeong để seo.
8- Vô Lượng Thọ Kinh Tông yếu (Muryangsugyeong jong-yo).
9- Phật thuyết A Di Đà Kinh sớ (Bulseol Amitagyeong).
10- Du Tâm An Lạc Đạo (Yusim allak).
11- Bồ Tát Giới Bản Trì Phạm Yếu ký (Bosal gyebon jibeom).
12- Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bản Tư Ký (Beommang Gyeong bosal gyebon sagi ).
13- Kim Cang Tam Muội Kinh Luận (Geumgang sammae gyeong).
14- Đại Thừa Khởi Tín Luận Biệt Ký (Daeseung gisillon byeolgi).
15- Đại Thừa Khởi Tín Luận Sớ (Daeseung gisillon để).
16- Nhị Chướng Nghĩa (Ijangui).
17- Phán Tỳ Lượng Luận (Pan biryang).
18- Trung Biên Phân Biệt Luận Sớ (Jungbyeon bunbyeollon).
19- Thập Môn Hòa Tranh Luận (Simmun hwajaeng).
20- Phát Tâm Tu Hành Chương (Balsim suhaeng jang).
21- Đại Thừa Lục Tình Sám Hối (Daeseung yukjeong chamhoe).
22- Di Đà Luận Tánh Ca (Mita jeungseong ga).
Những
tác phẩm Ngài lưu lại cho hậu thế trên 100 thể loại, chủ đề khác nhau
gồm 240 quyển. Ngài phân khoa phán giáo hai lĩnh vực giáo lý Nguyên thủy
và Đại thừa.
Một người Mỹ gốc Hàn đang sinh
sống ở New York đang hợp tác với ngành điện ảnh Hàn Quốc – Hoa Kỳ để
xuất bản Bộ phim tài liệu về Vị Cao Tăng Wonhyo (617-686), bậc thầy về
Chính trị, văn hóa, giáo dục thời Silla, người có công Đại chúng hóa
Phật giáo thời bấy giờ.
Bộ phim được dịch nhiều ngôn ngữ : tiếng Anh, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc với phụ đề tiếng Anh.
Thời gian thực hiện phim : Tháng 4 năm 2013 đến tháng 5 năm 2014
Hoàn thiện bộ phim: Khoảng tháng 9 năm 2014.
Thích Vân Phong