I- Phát hiện và khai thác các hiện vật quý đời Tây Sơn tìm
được ở Lương Xá (Chương Mỹ, Hà Tây cũ nay thuộc Hà Nội).
Đầu
những năm 70 của thế kỷ trước, GS sử học Phan Huy Lê đã phát
hiện một số di bản, di vật quý đời Tây Sơn ở Lương Xá (huyện
Chương Mỹ tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) gồm có Bộ
Đặng gia phả ký trong đó có bộ “Đặng gia phả hệ toản
chính thực lục” 6 quyển, có lời đề tựa của danh sĩ Ngô
Thì Nhậm (dưới đây gọi tắt là bộ “Đặng tộc phả”), một
bản Sắc phong và một tấm bia đá có khắc bài văn
bia “Tông đức thế tự bi”. Ngoài ra còn có tượng gỗ,
chuông đồng ở chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm tự, huyện Chương
Mỹ, link:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_Qu%E1%BA%A3ng_Nghi%C3%AAm
) có liên quan đến nhân vật được đề cập trong các di bản ở
Lương Xá. Ba di bản nói trên đều bằng chữ Hán, thuộc niên
đại Tây Sơn được cất giữ ở ba nơi (cùng ở Lương Xá) nhưng có
liên quan mật thiết đến một Đô đốc họ Đặng có tên trên cả ba
di bản..
a)
Bộ
“Đặng tộc phả” do chính Đặng Đô đốc biên soạn, chép
rất đầy đủ chi tiết thân thế sự nghiệp của 5 vị tiền bối
thuộc 5 đời trước của Đặng Đô đốc. Cả 5 vị đều thuộc hạng
đại công thần có công đầu trong sự nghiệp “phù Lê, cự Mạc”,
khi sống được phong tước quận công, khi chết đều được phong
Thượng đẳng đại vương (sinh vi tướng, tử vi thần). Mỗi cuốn
phả chép về một vị theo thứ tự cha truyền con nối với nhiều
chi tiết về gia đình, về quá trình cống hiến, cấp hàm được
phong theo niên giám, phong cảnh, phong tục các địa phương
các vị từng nhậm chức cùng nhiều văn bia, thơ văn, tường
thuật các trận triều đình giao đánh dẹp các phong trào nổi
loạn…là những nội dung có giá trị về văn học, về sử học.
Riêng đến đời Đặng Đô đốc,
không có một trang nào nói về thân thế, sự nghiệp của bản
thân tác giả. Sau ngày phát hiện các di bản ở Lương Xá
(1973), GS Lê đã giới thiệu họ tên của Đặng Đô đốc là
Đặng Tiến Đông
(Ảnh: chú ý 6 chữ
東
嶺
侯
鄧
進
暕
(Đông
Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản) do chính Đặng Đô đốc chép trên
trang sách) (vốn
chưa có tên trong sử sách chép về Tây Sơn từ trước cho đến
1973). Tuy nhiên đến năm 1999 qua khai thác “Đặng tộc phả”
nhà sử học kiêm Hán nôm học Trần Văn Quý (Hà Nội) đã phát
hiện chính tác giả để thông điệp cho hậu thế biết cách đọc
chính xác tên của mình qua câu tự thuật tại trang cuối quyển
6 chép về Dận Quận công Đặng Đình Miên (Đặng Tiến
Miên), thân sinh của Đặng Đô đốc, cũng là quyển cuối của
bộ “Đặng tộc phả”, như sau:
Phiên âm:“Mậu Ngọ
niên, ngũ nguyệt sơ nhị, Quý Sửu thì, sinh đệ bát tử Đông
hậu cải Giản, dĩ tự vựng vân: trùng âm tích vũ chi hậu, hốt
kiến nhật sắc, cố tri danh yên”.
Dịch nghĩa:
”Năm Mậu Ngọ (tức năm 1738-TDT) tháng 5, ngày 2, giờ Quý
Sửu, sinh con trai thứ 8 (của Dận quận công-TDT ) là Đông
sau cải đổi thành Giản, ý theo tự vựng nói: sau thời tiết
mây mù tích mưa, bổng xuất hiện ánh mặt trời, cho nên lấy đó
đặt tên”.(1)
Tra từ điển hiện đại, tại
cuốn “Từ Hải” (NXB Thượng Hải 1989-trang 1580) chữ “Giản”
được định nghĩa ”trùng âm tích vũ hậu hốt kiến nhật sắc
dã”, hoàn toàn trùng khớp với định nghĩa chữ”Giản”trong
bộ phả biên soạn từ 200 năm về trước! Tên ông được viết bằng
chữ Hán trên cả ba di bản là chữ
暕(Giản)
không nơi nào viết chữ
東(Đông).(chữ
Giản khác với chữ Đông ở chỗ chữ Giản có kèm bộ “nhật” trong
khi chữ Đông không có bộ “nhật”). Như vậy đã có cơ sở khoa
học xác định tên ông phải đọc đúng theo di bản là
“Giản”(Đặng Tiến Giản) không thể nào khác! Ngoài ra đáng chú
ý có một câu ghi trên trang đầu mỗi quyển trong bộ phả cho
biết tên, họ chức tước của tác giả: ” Đô đốc (có quyển
ghi là Đại Đô đốc) Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản thống lĩnh
hai đạo quân Vũ Thắng, Thiên Hùng ở chi Giáp nhất kính cẩn
biên tập” (không nói rõ chức tước này được thụ phong
dưới triều đại nào). Với “Đặng tộc phả”, người đọc chỉ biết
ông là một võ quan hàm Đô đốc tước Đông Lĩnh hầu, hậu duệ
một dòng họ rất thành đạt thuộc đời Lê trung hưng. Tuy nhiên
nhờ có bản “Sắc” và văn bia “Tông đức thế tự bi” mà hậu thế
biết thêm về sự nghiệp Đô đốc Đặng Tiến Giản với tư cách là
một đại tướng của Tây Sơn.
b)-
Bản Sắc được lập ngày 3 tháng 7 năm Đinh
Vị/Mùi, niên hiệu Thái Đức thứ 10 (tức15/8/1787) cho biết:
Đặng Tiến Giản - võ quan cao cấp thuộc nhà Lê-, giữa năm
Đinh Vị/Mùi (1787) ông đã từ Bắc Hà lặn lội vào Quảng Nam
xin yết kiến Nguyễn Huệ, được Huệ ca ngợi, đón tiếp trọng
thị, gia phong “chức Đô đốc đồng tri tước Đông Lĩnh hầu
vẫn sai giữ trấn Thanh Hoa “(vào thời điểm này Thanh Hoa
còn thuộc lĩnh thổ nhà Lê). Nguyễn Huệ còn dự kiến: ”năm
sau Tây Sơn tiến quân ra Bắc Hà bỏ người này (Đặng Tiến
Giản) ai làm được?”. Câu trên cho thấy Nguyễn Huệ đang
có kế hoạch tiến quân ra bắc và sẽ trọng dụng Đặng Tiến
Giản. Văn bia ”Tông đức thế tự bi” là bằng chứng kế tiếp nói
về ý đồ của Nguyễn Huệ đã sớm trở thành hiện thực.
.
c) Tấm bia đá dựng trước chùa Thủy Lâm ở Lương
Xá có bài văn Tông đức thế tự bi do Phan Huy Ích
biên soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc, khắc vào ngày 15
tháng 6 năm Cảnh Thịnh thứ 5 tức ngày 9/7/1797 ( 2 chữ
Cảnh Thịnh bị đục bỏ). Với 2 di bản “Đặng tộc phả”
và bản “Sắc” việc khai thác tương đối thống nhất
trong giới nghiên cứu, không có mấy tranh cãi (ngoại trừ
cách đọc tên Đông hay Giản) thì việc khai thác văn bia “Tông
đức thế tự bi” lại không thế! Văn bia có trên 500 từ chữ
Hán, nội dung chủ yếu ca ngợi công đức của Đặng Tiến Giản
tri ân đối với các bậc tiền nhân Đặng tộc, song các nhà
nghiên cứu đặc biệt chú ý đoạn văn bia đề cập đến công trạng
của Đặng Tiến Giản lập sau ngày về với Tây Sơn được
phong tước Đông Lĩnh hầu. Đây là đoạn có ý nghĩa
quyết định, là cứ liệu duy nhất cho đến nay để tìm hiểu về
sự nghiệp của Đô đốc Đặng Tiến Giản nhưng cũng là
đoạn khó dịch nhất vì người biên soạn sử dụng nhiều cụm từ
ẩn dụ buộc người đọc phải giải mã. Chính vì vậy trong quá
trình khai thác đoạn văn bia này, giới nghiên cứu đã có 2
cách giải thích khác nhau:
Giáo sư sử học Phan Huy Lê -người đầu tiên phát hiện
và giới thiệu các di bản, di vật đời Tây Sơn ở Chương Mỹ, Hà
Tây) -, sau khi giới thiệu đầy đủ ý nghĩa lịch sử của tấm
bia, ông đã căn cứ vào một câu trong đoạn văn bia ”Năm
Mậu Thân (1788), đầu đời Quang Trung (2
chữ Quang Trung bị đục-Tg), quân Bắc xâm chiếm nước
Nam, ông (tức Đặng Tiến Đông-Tg) phụng
chiếu cầm đạo quân tiên phong, tiến đánh làm cho quân Bắc
tan vỡ, ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi
cung cấm. Vũ Hoàng đế vào Thăng Long, tiến hành khen thưởng,
ban riêng cho ông xã quê hương là Lương Xá làm thực ấp vĩnh
viễn…”(2). Từ câu tự dịch như trên (không kèm
nguyên tác hoặc phiên âm chữ Hán), GS Lê giải thích “quân
bắc là quân Thanh”và đưa ra kết luận: văn bia “Tông đức thế
tự bi” ghi lại trận do Đô đốc Long chỉ huy đánh thắng quân
Thanh ở Đống Đa, tiến trước vào Thăng Long dịp Tết năm Kỷ
Dậu (1789), sau chiến thắng Đô đốc Long đã được vua Quang
Trung hậu thưởng, do đó nhân vật nói đến trong văn bia Đô
đốc Đặng Tiến Đông ở Lương Xá chính là Đô đốc Long. Nhận
định của GS Lê kèm theo gia phả, Sắc phong, tượng gỗ chuông
đồng…đã nhanh chóng thuyết phục các cơ quan quản lý Nhà nước
về văn hóa chấp nhận.
- Đến năm 1999, cũng trên
cơ sở tiếp cận và khai thác các di bản đời Tây Sơn ở Lương
Xá, một nhóm nhà sử học, Hán nôm học đã viết bài tranh luận
đăng trên cuốn “Đối thoại sử học”(tạm gọi là nhóm “đối thoại
sử học”)) lại cho rằng đoạn văn bia nói trên ghi lại trận
quân Tây Sơn đánh ra Thăng Long đầu năm Mậu Thân(1788) không
phải trận đánh quân Thanh đầu năm Kỷ Dậu (1789), Đặng Tiến
Đông phải đọc đúng là Đặng Tiến Giản và Đặng Tiến Giản là
một tướng Tây Sơn khác không phải Đô đốc Long. Nhận định của
GS Phan Huy Lê mới chỉ là một giả thuyết cần được xem xét
lại (3). Lập luận của nhóm“đối thoại sử học” được nhiều
nhà khoa học trong nước và ngoài nước đồng tình nhưng chưa
được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm giải quyết. Điều này
đã được cảnh báo trước. Năm 2001, sử gia Tạ Chí Đại
Trường (nhà nghiên cứu về Tây Sơn quê ở Bình Định, hiện
định cư ở Mỹ) cho rằng nhân vật “Đăng Tiến Đông” là không có
thực trong lịch sử Tây Sơn nhưng “con cháu họ Đặng cứ yên
tâm. Sai lầm đã gắn liền với một chế độ, một quyền lực thì
không dễ gì xóa bỏ mà không làm mất mặt người đương quyền”(5
). Cũng trong năm 2001, sử gia Bùi Thiết, nhà phê
bình văn học Lại Nguyên Ân, trong một bài phỏng vấn
đăng trên trang Web Thụy Khê đã tỏ thái độ đồng tình
với các vấn đề “phản biện” đưa ra trên cuốn “Đối thoại sử
học” trong đó có vấn đề “Đặng Tiến Đông” nhưng cũng đều
cho rằng việc giải quyết không dễ dàng vì:”giới sử học
Việt nam, do những điều kiện nào đó lãng tránh nó. Tại sao
vậy? Bởi vì giới sử học VN hơi giống khuôn khổ các nhà
trường, tức là có hệ thống thầy trò. Thế hệ thầy có những
người có kết quả không còn đứng được nữa, nhưng những người
đó vì có một thế lực nào đó nên những thế hệ sau ngại việc
thay đổi, tức là ngại đụng chạm đến thầy hơn là bảo vệ những
điều đúng đắn hơn trong nghiên cứu…” Thực tiễn những
năm sau đó diễn ra đúng như vậy!” Đối thoại sử học”đã rơi
vào sự im lặng kéo dài. Mặt khác nhóm “đối thoại sử học”, vì
tuổi tác, bệnh tật (riêng học giả Trần Văn Quý đã mất năm
2003) không tiếp tục cuộc tranh luận.
Để một nghi vấn lich sử
không bị chìm xuống, chúng tôi (nhóm thứ ba) tuy không phải
là những nhà sử học có tên tuổi nhưng đều là chuyên viên cao
cấp có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực văn hóa-xã hội, đã
nhận trách nhiệm tiếp nối làm sáng tỏ đúng sai về những vấn
đề đang tranh cãi xung quanh các di bản ở Lương Xá. Theo
chúng tôi, vấn đề có ý nghĩa quyết định để đạt mục đích là
phải có trong tay các bản gốc (hoặc bản sao) nguyên tác chữ
Hán của các di bản để có cơ sở khách quan đối chiếu hai cách
khai thác khác nhau như trên. Viêc thu thập các bài báo của
GS Phan Huy Lê và của nhóm “đối thoại sử học” không mấy khó
khăn nhưng phải qua nhiều năm sưu tầm chúng tôi mới có trong
tay nguyên bản chữ Hán, bản “Sắc” và văn bia “Tông đức thế
tự bi”(riêng bộ “Đặng tộc phả” đã có bản dịch của Viện Hán
nôm in thành sách “Đặng gia phả ký”năm 2000).
Được sự hỗ trợ phần biên
dịch của một số bạn thân là các nhà Hán nôm học ở Hà Nội,
Huế, Ninh Thuận, chúng tôi đã tìm ra toàn văn đoạn văn bia
có câu GS Phan Huy Lê đã dịch và khai thác như
sau:
Phiên âm:”Kim triều đại tướng thống Vũ Thắng đạo
Thiên Hùng đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản hệ xuất lệnh
tộc giáp nhất chi,Yên quận công chi tôn, Dận quận công chi
tử (mất một chữ) thì, hoàng triều Thái tổ Vũ hoàng đế nghĩa
thanh chấn bạc quy trú Quảng Nam, công nhất kiến quân môn,
mật mông tri ngộ, sủng ban ấn kiếm, ủy thống nhung huy,
ngưỡng lại thiên uy, nhất cử đãng định. Mậu Thân (2 chữ
tiếp theo bị đục) sơ, bắc binh nam mục, phụng chiếu tiên
phong đạo tiến chiến nhi bắc binh hội công đương kỵ đương
tiên, túc thanh cung cấm. Võ Hoàng đế giá lâm Thăng Long
sách huân ban hành thưởng đặc tứ bản quán Lương Xá vĩnh vi
thực ấp”. (Câu in chữ đậm là câu GS Lê đã khai thác
và dịch-TDT).
Đối chiếu nguyên tác chữ
Hán với lời dịch của GS Lê, chúng tôi thấy có mấy điểm đáng
chú ý: về niên đại trận đánh văn bia chỉ có 2 chữ Mậu Thân
(1788), không có 2 chữ Kỷ Dậu(1789). Hai chữ “Quang Trung”
GS Lê lắp vào 2 chữ bị đục chỉ là sự phỏng đoán, hơn nữa
Mậu Thân Quang Trung sơ mà dịch Mậu Thân đầu đời
Quang Trung cũng thiếu chuẩn xác. Bắc binh nam mục
GS Lê dịch là quân bắc xâm chiếm nước nam cũng không
chuẩn, ”mục“ chữ Hán không có nơi nào định nghĩa là
“xâm lăng, xâm lược”! Nói “Đặng Tiến Đông chính là
Đô đốc Long” chỉ là sự suy diễn, hoàn toàn không có
trong di bản. Được một số nhà nghiên cứu Hán nôm giúp đở,
chúng tôi đã dịch đoạn văn bia trên như
sau:
Dịch nghĩa:
”Vị đại tướng triều ta là đô đốc Đông Lĩnh Hầu Đặng Tiến
Giản thống lĩnh về Thiên Hùng trong đạo Vũ Thắng, xuất thân
từ chi thứ nhất một họ lớn, cháu cụ Yên quận công, con cụ
Dận quận công (mất một chữ). Bấy giờ tiếng tăm nghĩa khí của
Thái tổ Vũ Hoàng đế lừng lẫy khắp nơi, ngài đang đóng quân ỏ
Quảng Nam, ông một lần vào ra mắt trước cửa quân, nhờ ơn tri
ngộ, yêu ban ấn kiếm, giao cho cầm quân. Ngữa nhờ oai trời,
một lần cất quân là quét sạch giặc giả. Mậu Thân, năm
đầu niên hiệu Quang Trung (2 chữ Quang Trung bị đục)
quân bắc nhòm ngó phương nam, ông vâng chiếu lãnh
đạo tiên phong tiến đánh quân bắc tan rã, ông một mình một
ngựa đi trước vào dẹp yên cung cấm. Vũ Hoàng đế đến Thăng
Long xét công phong thưởng,
đặc biệt ban cho ông làng quê Lương Xá làm thực ấp vĩnh
viễn…”(câu in đậm để đối chiếu với câu dịch của GS
Lê với 2 cụm từ có gạch dưới là 2 điểm khác biệt). Tuy nhiên
chỉ với lời dịch như trên cũng chưa đủ làm sáng tỏ văn bia
nói đến trận đánh nào,vị tướng Tây Sơn tham dự trận đánh này
là ai? Do đó cần có sự “giải mã” tiếp theo.
Trước hết đoạn văn bia
nêu trên cho thấy mối liên quan giữa ba di bản (Đặng Tiến
Giản có tước Đông Lĩnh hầu được chép trong “Đặng tộc phả”là
từ bản “Sắc” năm 1787; chi tiết xuất thân của Đặng Tiến Giản
như trong văn bia cũng chính là lai lịch của Đặng Tiến Giản
đã chép trong”Đặng tộc phả”) đồng thời cũng cho thấy việc
diễn biến nối tiếp giữa việc Nguyễn Hụệ phong tước Đông Lĩnh
hầu và sau đó đã giao ấn kiếm cho Đặng Tiến Giản cầm quân
đánh giặc chỉ cách nhau thời gian ngắn trong năm Đinh Vị/Mùi
(1787). Văn bia không nói rõ Đặng Tiến Giản là đại tướng
thuộc triều đại nào,(chỉ những ai đã đọc bản “Săc”mới rõ
tước Đông Lĩnh hầu là do Nguyễn Huệ phong cho Đặng Đô đốc),
đối tượng tác chiến cụ thể là lực lượng quân sự của nước
nào? Đây chắc chắn không phải là “sơ suất” của 2 ông Phan
Huy Ích, Ngô Thì Nhậm vốn là những danh sĩ nổi tiếng hay
chữ, học rộng vào loại nhất xã hội đương thời.
Để lột tả những điều các
tác giả biên soạn văn bia gửi cho hậu thế, đương nhiên phải
biết đọc chữ Hán nhưng chưa đủ, còn phải có kiến thức sử học
nhất là sử Tây Sơn. Hai ông Phan, Ngô lập bia để
tưởng nhớ Đặng Tiến Giản, người bạn đồng hương, đồng
triều, đồng chí hướng mà 2 ông rất kính mến vào năm 1797,
vào thời điểm vua Quang Trung băng hà đã 5 năm, nội tình
triều Tây Sơn đang xuống dốc, vua Cảnh Thịnh hèn yếu, gian
thần lộng quyền, nhiều công thần thời vua Quang Trung đã bị
vu oan, bị sát hại, trong lúc thế lực Nguyễn Ánh không ngừng
lớn mạnh. Là những danh sĩ nổi tiếng, hai ông Phan, Ngô
đã lường thấy trước số phận không mấy sáng sủa của nhà Tây
Sơn. Trong bối cảnh đó, để tấm bia tưởng niệm người bạn lớn
có thể tồn tại trước mọi biến cố của thời cuộc, 2 ông phải
tìm cách ngụy trang tung tích của nhân vật. Bia ca
ngợi chiến công của một vị đại tướng Tây Sơn nhưng thoạt đọc
không mấy người nhận ra! Toàn văn bia không có 2 chữ “Tây
Sơn”, không có các tên:“Nguyễn Huệ”, “Quang
Trung”! Chính vì thế buộc người đọc phải động não để tìm
ra thông điệp trung thực ẩn chứa trong văn bia. Ý đồ của tác
giả biên soạn văn bia đã thành công giúp cho tấm bia tồn tại
qua những năm tháng nhà Nguyễn tận diệt các di vật, di sản
có liên quan đến “ngụy Tây Sơn” nhưng cũng đã gây không ít
khó khăn cho giới nghiên cứu sau này. Tuy nhiên sự “ngụy
trang” đó dù tinh vi cũng có những dấu hiệu giúp giới nghiên
cứu tìm ra sự thật ẩn bên trong.
Văn bia ca ngợi “Thái tổ
Vũ (Võ) Hoàng đế” là ai? Được biết Thái tổ Vũ Hoàng
đế là “miếu hiệu” của vua Quang Trung sau ngày nhà vua
băng hà. Như vậy Vũ Hoàng đế, vua Quang Trung
và Nguyễn Huệ chỉ là một người với ba danh xưng khác
nhau. Văn bia được soạn và khắc năm 1797 tức sau 5 năm vua
Quang Trung qua đời. Nguyễn Huệ, lúc trú quân ở Quảng Nam
vào năm 1787 còn là Bắc Bình vương chưa phải là Hoàng đế, vì
vậy không thể dùng danh hiệu “Quang Trung” để nói về Nguyễn
Huệ vào thời điểm này. Hai ông Phan, Ngô dùng “miếu hiệu”
của vua Quang Trung để nói về Nguyễn Huệ (cách gọi tiên đế)
là rất chính xác đồng thời tránh được lộ liễu: không nêu tên
Nguyễn Huệ mà người đời sau vẫn biết tác giả nói về
Nguyễn Huệ. Hai nhóm trước cũng đã phát hiện đúng Võ
Hoàng đế là Nguyễn Huệ. Điều khó nắm bắt hơn là các cụm từ “bắc
binh nam mục”, ”bắc binh hội”. Vào thời điểm lập
bia (1797) có 2 cách hiểu về “bắc binh”. Người nước Việt
thường gọi quân các triều đại phong kiến Trung Quốc ở phương
bắc là “bắc binh”(lúc này là quân nhà Thanh). Song ở thời
Tây Sơn trong hoàn cảnh đất nước chia đôi, phía nam là Nam
bang (Đàng Trong) do Tây Sơn quản lý, phía bắc là Bắc Hà
(Đàng Ngoài) do nhà Lê quản lý. Trong bối cảnh đó, quân Tây
Sơn gọi quân bắc triều (Bắc Hà) là “bắc binh”. Vậy “bắc
binh, bắc binh hội” trong văn bia, hai ông Phan, Ngô dùng để
chỉ quân “Tàu”(quân nhà Thanh) hay để chỉ quân Bắc Hà của
nhà Lê? Chìa khóa để giải mã bí ẩn này là ở hai chữ Mậu
Thân là năm xảy ra trận đánh của quân Tây Sơn. Sau 2 chữ
Mậu Thân có 2 chữ bị đục bỏ. Chỉ cần nắm bắt 2 chữ Mậu
Thân không cần biết 2 chữ bị đục cũng nhận thức được
niên đại trận đánh trong văn bia là năm Mậu Thân (1788).
Song cũng có thể từ 2 chữ
Mậu Thân mà xác định 2 chữ bị đục là “Quang Trung”
vì lẽ:
- Thứ nhất: thông thường khi
chép sử dưới các triều đại phong kiến viết năm theo âm lịch
cần kèm theo niên hiệu của đời vua để tránh nhầm lẫn.(ví dụ:
năm Đinh Vị/Mùi Thái Đức 10 tức năm 1787). Năm Mậu
Thân(1788) là năm Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế đặt niên hiệu
Quang Trung năm đầu. Vì vậy “Mậu Thân Quang Trung
sơ” dịch đúng là: ”Mậu Thân năm đầu niên hiệu Quang
Trung”.
- Thứ hai: chỉ có những từ có
khả năng làm lộ tung tích nhân vật thuộc đời Tây Sơn như “Quang
Trung” hay “Cảnh Thịnh” (cũng là niên hiệu ở đoạn
lạc khoản của văn bia) mới phải đục bỏ. Nguyễn Huệ
lên ngôi hoàng đế đặt niên hiệu Quang Trung vào ngày
22 tháng 11 Mậu Thân nhưng “niên hiệu Quang Trung năm
đầu” được áp dụng cho cả năm Mậu Thân thay thế cho niên
hiệu Thái Đức 11 hoặc
Chiêu Thống 2.
Trước đây GS Lê dịch “Mậu Thân, đầu đời Quang Trung”có
dụng ý nói đến trận đánh năm Kỷ Dậu thuộc về “đầu đời Quang
Trung”! Song hai chữ “Quang Trung” trong văn bia chỉ “niên
hiệu” của năm Mậu Thân, không có liên quan gì đến trận đánh
năm Kỷ Dậu (1789)! Giải thích “bắc binh” (bắc binh
nam muc) trong văn bia không phải là quân Thanh mà là quân
nhà Lê (Bắc Hà) đã được nhóm ‘Đối thoại sử học” phát hiện từ
năm 1999. Còn “nam mục” GS Lê dịch là “xâm lăng” cũng đã
từng được ông Đổ Văn Ninh chê là dịch không chuẩn nhưng chưa
ai đưa ra cách dịch có sức thuyết phục về 2 chữ “nam mục” và
đây cũng là 2 chữ bí ẩn cuối cùng của đoạn văn bia cần được
giải mã. Người đầu tiên đưa ra cách dịch ”nam mục” là ”nhòm
ngó phương nam”là anh N. ngườì chủ biên của nhóm.thứ ba.
Không phải là nhà nghiên cứu Hán nôm nhưng anh N. cũng có
một lưng vốn chữ Hán qua bốn năm học chữ Hán với linh mục
Thích (cha Thích) ở bậc trung học trường Khải Định (nay là
trường Quốc học Huế). Qua thời gian trăn trở, một hôm anh
N.chợt đọc trên báo một cái “tit”: ”Nga-Trung nhìn về một
hướng”, anh chợt thức tỉnh: ”mục” là mắt, là nhìn, có cái
nhìn lương thiện, cũng có cái nhìn bất lương (nhìn đểu), có
cái nhìn bình thường của một cá nhân, cũng có cái nhìn mang
ý nghĩa chiến lược của một quốc gia; nhìn cũng là “nhòm
ngó”, một tên trộm nhòm ngó gia sản của ai đó cũng có thể
gây xung đột, một đội quân “nhòm ngó” lĩnh thổ quốc gia láng
giềng là một âm mưu khiêu khích khơi mào cho một cuộc chiến
tranh giữa 2 quốc gia. Anh N. dịch “bắc binh nam mục”
là “quân bắc triều nhòm ngó phương nam”và khẳng định
“bắc binh nam mục” cũng chính là nguyên nhân dẫn đến
việc Nguyễn Huệ điều binh đánh ra Thăng Long lần thứ 2 tức
trận năm Mậu Thân (1788).
Sử sách chép về Tây Sơn đã
nói đến và phân biệt rất rõ ba trận đánh của Tây Sơn ra
Bắc tiến phạm Thăng Long. Đó là các trận: năm Bính
Ngọ (1786), năm Mậu Thân (1788) và năm Kỷ Dậu
(1789), mỗi trận gắn với một sự kiện lịch sử khác nhau.
Về sự kiện lịch sử gắn với năm Mậu Thân (1788), Hoàng Lê
nhất thống chí (hồi thứ 9) và Khâm định Việt sử cương
mục tường thuật tóm tắt như sau: “Nguyễn Hữu Chỉnh
-vốn là một tướng Tây Sơn bị Nguyễn Huệ bỏ lại ở Nghệ An khi
rút đại quân về nam vào giữa năm Bính Ngọ (1786). Cuối năm
Bính Ngọ, Chỉnh có công đưa quân ở Nghệ An ra bắc dẹp tàn dư
quân Trịnh do Án Đô Vương (Yến Đô vương) Trịnh Bồng chỉ huy
đã tái lập phủ chúa uy hiếp vua Lê. Chỉnh được vua Lê tin
dùng giao cho nắm binh quyền ở Thăng Long. Đầu năm Đinh
Vị/Mùi (1787) vốn sẵn bất mãn với Nguyễn Huệ, giờ đây gây
dựng được thế lực, Chỉnh âm mưu chống lại Nguyễn Huệ. Chỉnh
xúi dục vua Lê gửi quốc thư cho Nguyễn Huệ đòi lại đất Nghệ
An. Huệ rất tức giận. Mùa đông năm Đinh Vị/Mùi (1787) Huệ
sai Võ Văn Nhậm thống lĩnh quân thủy bộ Tây Sơn đánh ra Bắc
để trừng phạt Chỉnh. Cuối năm Đinh Vị/Mùi (1787), quân Tây
Sơn chiếm Thăng Long, Chỉnh cùng Lê Chiêu Thống chạy về Hải
Dương. Tháng giêng Mậu Thân, quân Tây Sơn truy kích bắt được
Chỉnh giải về Thăng Long, bị Nhậm giết chết. Lê Chiêu Thống
chạy thoát, cử người sang cầu viện vua nhà Thanh. Sau chiến
thắng, Vũ Văn Nhậm nắm binh quyền ở Thăng Long nảy sinh tự
kiêu, lộng quyền. Được tin báo, mùa hạ năm Mậu Thân, Nguyễn
Huệ ở Phú Xuân bất ngờ ra Thăng Long bắt giết Nhậm, bố trí
lại phòng thủ Bắc Hà, khen thưởng tướng sĩ, thu nhận và
trọng dụng nhiều sĩ phu Bắc Hà về với Tây Sơn trong đó có
Phan Huy Ích, Ngô thì Nhậm”.
Thực tiễn lịch sử như trên,
giúp giải mã ý nghĩa các cụm từ ẩn dụ mà hai ông Phan,
Ngô đã sử dụng trong văn bia: “bắc binh nam mục”
là “quân bắc triều (nhà Lê) nhòm ngó về phương nam” (lăm
le đòi lại đất Nghệ An). Đây cũng chính là nguyên nhân
khiến Nguyễn Huệ nổi giận cử quân Tây Sơn đánh ra Bắc Hà vào
cuối đông năm Đinh Vị/Mùi để trừng phạt bè lũ phản nghịch Lê
Chiêu Thông-Nguyễn Hữu Chỉnh (bắc binh hội). Trong trận này
Đông Lĩnh Hầu Đặng Tiến Giản được Huệ giao ấn kiếm
lãnh đạo tiên phong. Đầu năm Mậu Thân Giản đã đánh tan quân
Bắc Hà, tiến trước vào Thăng Long (dẹp yên nơi cung cấm, có
ý nghĩa là dẹp nội phản). “Vũ Hoàng đế giá lâm Thăng Long…”
mô tả trường hợp Nguyễn Huệ ra Thăng Long bắt giết Nhậm,
khen thưởng tướng sĩ trong đó Đặng Tiến Giản được ban thưởng
làng quê Lương Xá làm thực ấp.(“Tây Sơn thuật lược”
nói rõ chi tiết trong trận năm Mậu Thân: “Huệ khiến Tiết
chế Nhậm đốc xuất bộ quân, Thái úy Điều đốc xuất thủy quân,
Đô đốc Đặng Giản làm tiên phong…(Giản là người Lương Xá hậu
duệ của Đặng Nghĩa Huấn”). Giải mã đoạn văn bia như trên
là căn cứ khoa học để bác bỏ giả thuyết “Đô đốc Đặng Tiến
Đông chính là Đô đốc Long”.
Vậy Đặng Đô đốc ở Lương Xá là ai? Việc giải mã văn bia
Tông đức thế tự bi cùng bản “Sắc”và bộ “Đặng
tộc phả” đã phác lộ chân dung khá đầy đủ một đại tướng
Tây Sơn từ hơn 200 năm qua vẫn nằm ẩn trong các di bản ở
Lương Xá. Đó là Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản
quê ở Lương Xá (nay là thôn Lương Xá, xã Lam Điền, huyện
Chương Mỹ, Hà Nội) sinh năm Vĩnh Hựu thứ tư (18/6/1738) hậu
duệ đời thứ 5 của Nghĩa Quốc Công Đặng Huấn, cháu của
Yên Quận công Đặng Tiến Thự, con của Dận Quận công
Đặng Đình Miên (Đặng Tiến Miên).
Đặng Tiến Giản từng là
võ quan cao cấp của nhà Lê và là sĩ phu có tiếng tăm ở Bắc
Hà. Mùa thu năm Đinh Vị/Mùi (1787), vì ngưỡng mộ anh hùng
Nguyễn Huệ, khí thế chính nghĩa của Tây Sơn, cùng với
việc chán ghét sự hèn yếu của Lê Chiêu Thống, sự lộng
quyền của Nguyễn Hữu Chỉnh, ông đã bỏ vào Quảng nam
đầu quân dưới trướng Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, ông
được Huệ đón tiếp trọng thị, gia phong chức Đô đốc đồng
tri tước Đông Lĩnh hầu. Với thiên tài dùng người, sẵn có
ý đồ tiến quân ra bắc để trừng trị Nguyễn Hữu Chỉnh,
Nguyễn Huệ đã nhận thấy Đặng Tiến Giản sẽ có vị
trí không ai thay thế trong việc thu phục các sĩ phu Bắc Hà.
Mùa đông năm Đinh Vị/Mùi (1787) ông được Huệ tin yêu giao ấn
kiếm lãnh đạo tiên phong trong đội quân Tây Sơn do Vũ Văn
Nhậm làm Tiết chế đánh ra Thăng Long để trừng trị bè lũ
phản nghịch Lê Chiêu Thống-Nguyễn Hữu Chỉnh. Đầu năm
Mậu Thân (1788), Đô đốc Giản xông xáo đánh bại quân nhà Lê
do Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ huy, tiến trước vào kinh
thành Thăng Long, vua Lê cùng Nguyễn Hữu Chỉnh chạy
về Hải Dương. Quân Tây Sơn truy kích giết tại trận Hữu Du
(con Hữu Chỉnh), bắt sống Nguyến Hữu Chỉnh giải về Thăng
Long, Nhậm hạ lệnh giết chết. Sau chiến thắng, Đặng Tiến
Giản được giao trị nhậm trấn Thanh Hoa (như đã ghi trước
trong bản Sắc) được Nguyễn Huệ ban thưởng làng quê Lương Xá
làm thực ấp vĩnh viễn. Sau trận này nhiều sĩ phu Bắc Hà theo
gương Đặng Tiến Giản về đầu quân Tây Sơn trong đó có các
danh sĩ nổi tiếng: Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm cũng là
những người bạn cố tri của Đặng Tiến Giản.
Theo “Tây Sơn thuật lược”,
năm Canh Tuất (1790), niên hiệu Quang Trung năm thứ 3, vua
Quang Trung sai con thứ là Nguyễn Quang Bàn về
làm trấn thủ Thanh Hoa. Đặng Tiến Giản về Thăng Long
được phong “Đại Đô đốc coi giữ Đại Thiên Hùng binh”.
Trong những năm sau này, ngoài công việc triều chính,
ông dành thời gian để biên soạn bộ “Đặng gia phả hệ toản
chính thực lục”thể hiện tấm lòng hiếu thảo, sùng kính,
tri ân tổ tiên. (Bộ phả này không ghi năm tháng biên soạn
nhưng căn cứ vào chức tước Đặng Tiến Giản chép trên đầu mỗi
quyển phả là “Đô đốc Đông Lĩnh hầu thống lĩnh Thiên Hùng”
là chức tác giả được phong năm Quang Trung 3 (1790) thì việc
tiến hành biên soạn bộ phả phải sau năm 1790). Vốn là người
hâm mộ đạo Phật, năm 1794 ông đúc chuông đồng cung tiến
chùa Trăm Gian, hiện chùa còn lưu giữ bức tượng truyền
thần bằng gỗ của ông (dân gian gọi là tượng quan Đô).
Đặng Tiến Giản mất ngày 15 tháng 4 dưới triều vua Cảnh
Thịnh (chưa xác định năm mất). Mộ táng tại xứ Đồng Trê, nay
thuộc thôn Đầm Dền, xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây
cũ nay thuộc Hà Nội).
.
Như vậy Đặng Tiến Giản, một đại tướng của Tây
Sơn, văn võ toàn tài, hội đủ các đức tính Trung, Nghĩa, Trí,
Dũng, Nhân, một trung thần của nhà Lê, khi về với Tây Sơn
cũng rất được vua Quang Trung tin dùng, đồng nghiệp kính
mến. Có thể ông về với Tây Sơn muộn và thời gian phục vụ
cũng chưa dài (chưa quá 10 năm) nên sử sách chép về Tây Sơn
các đời trước không thấy nói đến tên ông (trừ cuốn “Tây
Sơn thuật lược”) nhưng với sự phát hiện các di bản, di
vật đời Tây Sơn ở Lương Xá, chùa Trăm Gian đã cho thấy: hiếm
có một đại tướng Tây Sơn nào còn được lưu giữ sắc phong, gia
phả, bia đá, tượng gỗ, chuông đồng cùng phần mộ cho đến ngày
nay sau những năm nhà Nguyễn chủ trương truy sát tàn dư, tận
diệt mọi di vật, di sản có liên quan đến “ngụy Tây Sơn”.
Thân thế, sự nghiệp của ông rất rõ ràng, minh bạch với những
bằng chứng lịch sử không thể bàn cãi nhưng nó trở nên phức
tạp kể từ năm 1973 (TK XX) khi giáo sư Phan Huy Lê quàng cho
Đặng Tiến Giản cái tên “Đặng Tiến Đông”với lời
quảng bá có cánh: đây chính là Đô đốc Long, một đại
tướng lừng danh của Tây Sơn đang khuyết lai lịch (?).
II- Giải
mã văn bia Tông đức thế tự bi, giúp sáng tỏ một số nghi vấn
đang tồn tại xung quanh Đặng Tiến Giản và một số nhân vật
lịch sử cùng thời.
Việc giải mã văn bia
Tông đức thế tự bi cùng với việc khai thác các di bản có
liên quan là bộ Đặng tộc phả và bản Sắc không
chỉ làm sáng tỏ sự ngộ nhận trước đây về cách đọc họ tên
nhân vật trong các di bản (giữa Đặng Tiến Đông và Đặng Tiến
Giản), về sự khác nhau giữa 2 hai trận đánh cùng 2 Đô đốc
chỉ huy quân Tây Sơn đánh ra Thăng Long: Đô đốc Đặng Tiến
Giản (trận năm Mậu Thân-1788) và Đô đốc Long (trận năm Kỷ
Dậu-1789) mà còn giúp sáng tỏ một số sự kiện lịch sử khác.
-Về năm mất của
Đặng Tiến Giản: trên các trang sử giới thiệu
về tiểu sử “Đặng Tiến Đông” tức Đặng Tiến Giản đều xác định
năm sinh của nhân vật là năm 1738. Riêng năm mất của nhân
vật còn có nhiều ý kiến khác nhau. Từ điển “Nhân vật lịch
sử của Việt nam” của Nguyễn Quang Thắng-Nguyễn Bá Thế
(Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh tái bản năm 2006) ghi ”Đặng
Tiến Đông mất năm 1787”, có nơi ghi ”năm 1803”, có nơi ghi
”mất vào cuối triều Tây Sơn”…Văn bia “Tông đức thế tự bi”
tuy không ghi rõ ngày mất của Đặng Tiến Giản song đây
là văn bia do 2 ông Phan Huy Ích, Ngô thì Nhậm soạn
để tưởng nhớ Đặng Tiến Giản thì năm 1797 -năm lập
bia, chính là cột mốc xác định tuổi thọ tối đa của
Đặng Tiến Giản. Những nơi ghi ông mất năm 1787 hoặc 1803
đều không có căn cứ cần loại bỏ. Xác định ông mất vào cuối
triều Tây Sơn là có căn cứ song đã có cơ sở xác định cụ thể
hơn là ông mất trong khoảng
giữa năm 1794 (năm đúc chuông
tặng chùa Trăm Gian) và năm 1797 (năm lập bia) dưới triều
vua Cảnh Thịnh.
Gác
chuông chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm tự) thôn Tiên Lữ, xã Tiên
Phương,
huyện
Chương Mỹ, Hà
Nội
- Về năm mất của Nguyễn
Hữu Chỉnh: Trên các trang sử giới thiệu tiểu
sử Nguyễn Hữu Chỉnh (Wikipedia,Vinhanonline…) đều ghi
năm mất của Chỉnh là 1787 (căn cứ vào năm quân Tây Sơn đánh
ra ra Bắc Hà để hỏi tội phản thần Nguyễn Hữu Chỉnh). Văn bia
Tông đức thế tự bi cho thấy xác định năm mất của
Nguyễn Hữu Chỉnh vào năm 1787 là không chính xác! Các
sách Hoàng Lê nhất thống chí, Khâm định Việt sử cương mục
đều chép quân Tây Sơn dưới sự thống lĩnh của Vũ Văn Nhậm bắt
đầu tiến quân ra Bắc Hà vào tháng Một năm Đinh Vị/Mùi
(mùa đông năm 1787). Song việc đánh ra Bắc Hà không phải là
một cuộc hành quân dễ dàng nhanh chóng! Bắc triều còn đầy đủ
binh hùng tướng mạnh để chống lại cuộc bắc tiến của quân Tây
Sơn trên từng đoạn đường dẫn đến kinh thành. Riêng phòng
tuyến sông Thanh Quyết (Gia Viễn) cha con Nguyễn Hữu Chỉnh
huy động đến 3 vạn quân có trọng pháo, thủy quân để ngăn
chặn quân của Vũ Văn Nhậm. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng vua
Lê buộc phải rút chạy khỏi Thăng Long sau khi phòng tuyến
này bị quân Tây Sơn đánh tan vỡ..Các sách sử không ghi
chính xác ngày tháng quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long:
Hoàng Lê nhất thống chí, Khâm định Việt sử cương mục ghi
cuối đông năm Đinh Vị, Tây Sơn thuật lược, Quang
Trung anh hùng dân tộc (Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm) ghi
đầu năm Mậu Thân. Văn bia “Tông đức thế tự bi”
chép “đầu năm Mậu Thân Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản đánh
tan quân bắc triều tiến trước vào Thăng Long” là thông
điệp đáng tin cậy về thời gian quân Tây Sơn tiến phạm Thăng
Long. Hơn nữa, khi quân Tây Sơn vào chiếm Thăng Long Nguyễn
Hữu Chỉnh cũng chưa chết! Chỉnh cùng vua Lê đã chạy lên Hải
Dương tổ chức phòng thủ. Võ Văn Nhậm phải sai bộ
tướng Nguyễn Văn Hòa truy kích và Hòa đã giết tại
trận Nguyễn Hữu Du (con Chỉnh), sau đó bắt sống Chỉnh tại
Mục Sơn (tên xã, thuộc huyện Yên Thế nay là thôn Mục
Sơn, xã Cao Thượng, huyện Tân Yên, Bắc Giang). Giải Chỉnh về
Thăng Long, Vũ Văn Nhậm hỏi tội và giết chết. Lúc này là
tháng giêng năm Mậu Thân (1788).
- Đô đốc Long
quê ở đâu? Việc xác định lai lịch Đô đốc Đặng
Tiến Giản không có nghĩa là người viết phủ nhận sự tồn
tại của Đô đốc Long. Cũng đã có người nói Trúc Diệp
Thanh (đăng trên Giao điểm online tháng 4/2010) chỉ
căn cứ vào văn bia Tông đức thế tự bi để phủ nhận vai
trò của Đô đốc Long là thiếu sức thuyết phục!(Duy
Phương-Wikipedia). Đây là sự ngộ nhận của người đọc. Bài
viết của TDT không nhằm phủ nhận thân thế sự nghiệp của
Đô đốc Long mà chỉ nhằm đính chính giả thuyết: ”Đặng Tiến
Đông chính là Đô đốc Long”. Đúng ra bài viết của TDT
nhằm 2 mục đích:
1- Trả lại sự thật cho Đô
đốc Long. Đúng như sử gia Tạ Chí Đại Trường từng
nêu: giả thuyết “Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long”
là “chôn Đô đốc Long lần thứ hai”.(5) Sự thật là từ
sau thập kỷ 70 (TK XX) đến nay, với sự xuất hiện tên“Đặng
Tiến Đông”, tên “Đô Đốc Long” hầu như không còn
được nhắc đến!
2- Trả lại cho lịch sử đất
nước, lịch sử Thủ đô Thăng Long, lịch sử Đặng tộc ở Lương Xá
một đại tướng Tây Sơn văn võ toàn tài, có đức hạnh xứng đáng
dược tôn vinh là Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản.
Bài viết này chỉ cung
cấp bằng chứng bác bỏ giả thuyết nói về Đô đốc Long là
người quê ở Lương Xá. Hiện nay Đô đốc Long quê ở đâu
còn nhiều nghi vấn khác:
-Sách Tây Sơn lương
tướng ngoại truyện”của Nguyễn Trọng Trì xác minh
Đô đốc Long là Đặng Văn Long tự Tử Vân quê huyện Tuy
Viễn, phủ Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
-Sách “Quảng nam
đất nước và nhân vật” của Nguyễn Quang Thắng xác
minh: Đô đốc Long chính là Lê Văn Long con trai Thủ
Tài hầu Lê Văn Thủ, người làng Phú Xuân Trung, huyện Lê
Dương, châu Thăng Hoa (nay thuộc thị xã Tam Kỳ, Quảng nam)
-Tạp chí Cẩm
Thành số1 (Sở VHTT tỉnh Quảng Ngãi-1994), cùng một số
nhà nho cao tuổi ở Quảng Ngãi phát hiện: Đô đốc Long là
Nguyễn Tăng Long quê làng Đông Thành nay thuộc xã Tịnh
Thọ huyên, Sơn Tịnh , tỉnh Quảng Ngãi.
Phạm vi bài viết này
không có tham vọng bàn luận về quê Đô đốc Long ở đâu với các
nghi vấn như trên, nhưng qua nghiên cứu thấy nổi lên 2 điểm
khác thường của Đô đốc Long là “Đặng Tiến Đông” so với ba
nhân vật còn lại:
- một là: quê quán ba
nhân vật Đặng Văn Long (Bình Định), Nguyễn Tăng Long
(Quảng Ngãi), Lê Văn Long (Quảng Nam) phản ảnh Đô đốc
Long có quê quán ở các tỉnh miền trung nơi xuất phát phong
trào Tây Sơn và căn cứ địa của quân Tây Sơn cũng là quê quán
của hầu hết các danh tướng cận kề với Nguyễn Huệ: nữ tướng
Bùi Thị Xuân (quê Bình Định), Đặng Văn Bảo-đô đốc
Bảo (quê Bình Định), Thái phó Trần Quang Diệu
(quê Bình Định), Nguyễn Văn Tuyết-Đô đốc Tuyết (quê
Bình Định) v.v…Riêng Đô đốc Long với cái tên Đặng Tiến
Đông là quê ở Lương Xá (Chương Mỹ, Hà Tây cũ nay thuộc
Hà Nội) ?
- hai là: ba nhân vật
nghi vấn là Đô đốc Long: Đặng Văn Long, Lê Văn Long,
Nguyễn Tăng Long chỉ khác nhau về dòng họ, quê quán
nhưng hầu như đều có chung đặc điểm chứng tỏ Đô đốc Long là
người tham gia phong trào Tây Sơn sớm, từng lập nhiều công
trạng trước khi tham dự trận đại phá quân Thanh ở Đống Đa
dịp Tết Kỷ Dậu(1789). Riêng Đô đốc Long là Đặng Tiến Đông ở
Lương Xá lại có đặc điểm khác: vốn là võ quan nhà Lê, tham
gia Tây Sơn từ năm1787 (giai đoạn cuối triều Tây Sơn) chỉ
tham dự một trận đánh duy nhất (?).
Trúc Diệp Thanh
Hà Nội tháng 5-2011
Chú thích:
(1)-“Phải gọi là Đô đốc
Đặng Tiến Giản”, Trần Văn Quý (Đối thoại sử học-trang
359-365).
(2)- -Đặng Tiến Đông -một
tướng Tây Sơn chỉ huy trận Đống Đa, Phan Huy Lê (Tạp
chí Nghiên cúu lịch sử số 1054 (01-1974).
(3)-“Đô đốc Đặng Tiến Đông
hay Đô đốc Đặng Tiến Giản?” Đỗ Văn Ninh-(Đối thoại sử
học, tr.353…) -“Xin trả lại công đánh trận Đống Đa cho Đô
đốc Long”, Lê Trọng Khánh- (Đối thoại sử học, trang
366…).
(4) -“Thông tin tư liệu”
đăng trên Tạp chí “Huế Xưa và Nay” (Hội Khoa học Lịch sử
TT-H số 90-tháng
12/2008)
(5)-“Đối
thoại sử học-Tây Sơn, lại nhìn từ bên trong”-Tạ Chí Đại
Trường.
*
* *
Sách tham khảo:
-“Hoàng Lê nhất thống
chí” (Hồi
thứ 9), (Nxb Văn học-2010).
-“Khâm định Việt sử
Cương mục”.
-“Tây Sơn thuật lược”xuất
bản dưới triều Nguyễn, có đăng trong Tạp chí Nam Phong. Bài
viết này sử dụng bản dịch của Tạ Quang Phát đăng trên Tạp
chí Sử Địa Sài Gòn số Xuân Mậu Thân (1968).
-“Quang Trung-anh hùng
dân tộc” của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (Nxb Văn hóa-Thông
tin tái bản 1998).
-“Tư liệu điền dã vùng
Huế về thời kỳ Tây Sơn” (Nxb Thuận Hóa 1998).
-“Đặng gia phả ký”sách
dịch của Viện Hán nôm (2000).
-“Đối thoại sử học”
(Nxb Thanh Niên 2000).
PHỤ
LỤC- Các đoạn bằng chữ Hán
(có phiên âm, dịch nghĩa trong bài).
1-Câu tự thuật của Đặng Tiến Giản
ở trang cuối quyển 6 bộ Đặng gia phả hệ toản chính thực lục
Nguyên văn:
"戊午年五月初二,癸丑時,生弟八子“東”,後改“暕”,以字彙云
重阴积雨之后忽見日色,故知名焉.
2-Đoạn nói về chiến công
của Đặng Tiến Giản,
trích văn bia “Tông đức thế tự bi”.
Nguyên
văn:
:”今朝大將統武勝道天雄都督東嶺侯鄧進暕系出令族甲支燕郡公之孫胤郡公之子
(…)
時皇朝太祖武皇帝義聲震礡歸駐廣南公一見軍門密蒙知遇寵頒印劍委統戎麾仰賴天威一舉盪定戊申…初北兵南牧公奉詔先鋒道進戰而北兵潰公單騎當先掃清宮禁武皇驾臨昇龍策勳行赏特頒本貫良舍社永為食邑”
3-Sắcphong:
Nguyên văn:
Phiên âm:
敕
常
信
府
富
川
縣
盛
福
社
鄧
進
暕
丈
夫
氣
愾
男
子
胸
襟
仕
宦
遭
逢
役
见
王
臣
之
偉
績
始
終
遇
報
不
忘
國
士
之
殊
知
經
冬
肯
擾
于
寒
松
行
道
正
悲
于
秀
麥
秦
師
無
援
未
灰
復
楚
之
心
漢
傑
有
謀
難
塞
為
韓
之
責
苟
依
棲
之
無
地
耻
共
戴
之
有
天
卜
一
路
之
可
南
大
邦
于
控
詎
半
河
之
以
北
義
士
會
無
將
用
處
於
年
來
捨
斯
人
其
孰
可
可
加
都
督
同
知
職
東
嶺
侯
仍 清
華
鎮
手
於
戲
歸
夏
臣
于
湯
御
寧
禁
戴
舊
之
素
依
將
殷
士
于
周
京
勉
翕
維
新
之
耿
命
罄
乃
心
力
濟
我
事
功
欽
哉
上
秩
故
敕.-泰德十年七月初三日
Sắc: Thường Tín phủ, Phú
Xuyên huyện, Thạnh Phúc xã Đặng Tiến Giản.Trượng phu khí
khái, Nam tử hung khâm. Sĩ hoạn tao phùng, dịch kiến vương
thần chi vĩ tích; Thủy chung ngộ báo, bất vong quốc sĩ chi
thù tri. Kinh đông khẳng nhiễu vu hàn tùng,Hành đạo chính vi
vu tú mạch.Tần sư vô viện, vị khôi phục Sở chi âm; Hán kiệt
hữu mưu, nan tắc vi Hàn chi trách. Cẩu y thê chi vô đạo, Sĩ
cộng đái chi hữu thiên. Bốc nhất lộ chi khả nan, đại bang vu
khống; Cự bán hà chi dĩ bắc, nghĩa sĩ hội vô.Tương dụng xử ư
niên lai , xả tư nhân kì thục khả. Khả gia đô đốc đồng tri
chức, Đông Lĩnh hầu, nhưng sai Thanh Hoa trấn thủ. Ư tư: Quy
Hạ thần vu Thang ngự, ninh câm đái cựu chi tố y; Tương Ân sĩ
vu Chu kinh, miễn hấp duy tân chi cảnh mệnh. Khánh nãi tâm
lực,Tế ngã sự công. Khâm tai. Thượng trật. Cố sắc-Thái Đức
thập niên thất nguyệt sơ tam nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc cho Đặng Tiến Giản
người xã Thịnh Phúc, huyện Phú Xuyên, phủ Thường Tín.Trượng
phu hăng hái, Nam tử hào hùng. Gặp gỡ quan trường, công cả
quân thần từng gây dựng; Trước sau báo đáp, biết nhau quốc
sĩ phải khắc ghi. Trải qua đông, thông rét chẳng nao; Thi
hành đạo, lúa tươi cũng ủ. Quân Tần không tới, lòng khôi
phục Sở chưa thành;Tướng Hán có mưu, việc thiết lập Hàn khó
chặn. Tạm nương náu không tìm được đất; Luống hổ ngươi cùng
đội chung trời.Một nẻo đường ở cõi nam, đại bang ngăn giữ;
Nửa bên sông về đất bắc, nghĩa sĩ vắng tênh. Đem dùng để cho
năm sau, bỏ người này ai làm được? Vậy, thêm cho chức đô đốc
đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu, vẫn sai làm trấn thủ xứ Thanh
Hoa. Bầy tôi Hạ theo về Thang ngự, chớ cậy nhờ ơn đội chúa
xưa; Kẻ sĩ Ân đem đến Chu kinh, hãy gắng gỗ tuân theo mệnh
mới. Hết lòng hết sức, Giúp việc cho ta. Hãy kính đấy! Đây
là sắc thăng trật. Ngày mồng 3 tháng bảy năm Thái Đức thứ 10
(1787). (Người dịch: Lê Nguyễn
Lưu).