“Gió
đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”.
Đã hơn 300 năm qua, tiếng chuông Thiên Mụ vẫn đều đặn
giữ nhịp thời gian. Nhưng, chuông ấy mỗi ngày hai buổi được
gõ như thế nào thì mấy ai biết ?
(Hình
bên: Nhà sư trẻ Thích Quang Thiện là một trong những người
đang giữ hạnh nguyện đánh chuông chùa Thiên Mụ - Ảnh: Bùi
Ngọc Long)
Tương
truyền về linh khí
Chùa
Thiên Mụ (còn gọi là Linh Mụ) tọa lạc trên một ngọn đồi
xã Hà Khê (cũ) mặt nhìn xuống dòng sông Hương, như thể
đầu rồng ngoảnh lại, cách Cố đô Huế về phía Tây khoảng
5 km. Sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1553,
đã mô tả về ngôi chùa: Chùa nằm phía Nam xã Hà Khê huyện
Hương Trà, ở trên đồi núi, dưới giáp dòng sông, cảnh
đẹp vượt hẳn ba nghìn thế giới, gần gang tấc với thiên
trì. Khách tản bộ đăng lâm bỗng chốc phát lòng lành, tiêu
tan tục lụy...”. Tương truyền, năm Tân Sửu (1601), chúa
Nguyễn Hoàng, nhân buổi dạo chơi phong thủy, thấy vùng đồng
bằng xã Hà Khê, có một ngọn đồi cao nổi lên như hình
rồng quay đầu nhìn lại, phía trước trông ra sông dài, phía
sau có hồ lớn, cảnh trí rất đẹp, hỏi người dân địa
phương, người ta cho biết: Ngọn đồi này linh lắm, xưa có
bà lão mặc áo đỏ quần xanh, ngồi trên ngọn đồi nói rằng:
“Rồi sau sẽ có vị chân Chúa đến đây sửa núi lập chùa
để tụ linh khí, giữ bền long mạch”. Nói xong bà lão biến
mất. Chúa Nguyễn Hoàng cho rằng đất này có khí thiêng mới
lập chùa gọi tên là chùa Thiên Mụ. Đến đời chúa Nguyễn
Phúc Chu (1691-1725), ông là một cư sĩ tại gia thọ giới với
ngài Thạch Liêm hòa thượng, phái Tào Động, pháp danh là
Hưng Long, rất chú trọng đến việc chăm lo kỷ cương phép
nước, khuyến khích xây dựng chùa chiền, chấn hưng Phật
giáo.
“Bách
bát hồng thanh”
Chùa
Thiên Mụ hiện có hai quả chuông. Một quả chuông được
đúc vào năm Canh Dần (1710) đặt trong một ngôi nhà bát giác
phía bên phải tháp Phước Duyên (nhìn từ trong ra). Chuông
cao 2,50m, đường kính miệng 1,40m, cân nặng 3.285 cân (tương
đương 1.986 kg). Trên chuông có khắc bài minh của chúa Nguyễn
Phúc Chu “chú nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an”.
Tương truyền trong ngày rằm Phật đản, chú nguyện đúc chuông
có hàng trăm quan viên Phật tử đến quy y, thọ giới đã
phát tâm thả vào vạc đồng sôi rất nhiều vật quý giá...
bằng một niềm tin bất hoại.
Chính
vì vậy chiếc chuông đã mang trong mình cả những giá trị
tâm linh và một hàm lượng hợp kim đặc biệt tạo nên âm
thanh ngân nga siêu thoát. Đến thời vua Thiệu Trị, vua đã
cho xây tháp Từ Nhân (sau đổi tên thành tháp Phước Duyên)
cao bảy tầng và xây đình Hưng Nguyện, viết văn bia để
lưu giữ công đức xây tháp và đình. Vua cũng cho xây dựng
hai tiểu đình trước Nghi môn để dựng bia đá khắc bài
minh Thiên Mụ chung thanh và đưa chùa Thiên Mụ vào danh mục
20 cảnh đẹp chốn Thần kinh. Trong bài minh, có đoạn: “Bách
bát hồng thanh tiêu bách kết/Tam thiên thế giới tỉnh tam
duyên... (Một trăm lẻ tám tiếng chuông tiêu tan trăm nỗi
oan kết muộn phiền/Ba ngàn thế giới tỉnh ba duyên...” (ngộ
lý duyên khởi của nhà Phật). Chuông này hiện nay chỉ được
đặt như một pháp khí của chùa mà không đánh. Còn chiếc
chuông đang làm nhiệm vụ giữ nhịp thời gian của “tiếng
chuông Thiên Mụ” hiện nay được đúc vào năm Gia Long thứ
14 (1815), đặt trên lầu chuông bên trái cổng Tam Quan, để
đi vào điện Đại Hùng.
Trong
thời đại phong kiến, người đánh chuông chùa Thiên Mụ do
Tăng cang (chức danh do triều đình phê chuẩn) của chùa phân
công. Kế tục hạnh nguyện và giữ hồn cho tiếng chuông Thiên
Mụ hiện nay là các nhà sư trẻ đang tu học tại chùa. Thượng
tọa Thích Trí Tựu cho biết từ xưa đến nay, chuông chùa
vẫn được đánh mỗi ngày hai thời (hai lần), vào lúc 19
giờ 30 và 3 giờ 30 sáng. Mỗi lần đánh trong thời gian một
tiếng đồng hồ (60 phút) bằng 108 tiếng chuông để xóa đi
108 nỗi phiền muộn trong thế gian. Theo giáo lý nhà Phật,
chúng sinh trong tam giới (gồm dục giới, sắc giới và vô
sắc giới) đều có chung bát khổ (sinh khổ, lão khổ, bệnh
khổ, tử khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, oán tằn hội, ái biệt
ly khổ và cầu bất đắc khổ). Từ căn bản của 8 điều
khổ sẽ dẫn đến 108 nỗi phiền não được chia nhỏ theo
trạng thái tâm lý và tình cảm. Trong mỗi tiếng chuông của
người thiền giả đều mang theo tâm nguyện từ bi gửi gắm
đến chúng sinh giải tỏa mọi muộn phiền đau khổ.
Công
phu gõ chuông Thiên Mụ
Cái
khó của việc gõ chuông Thiên Mụ là không phải bất kỳ
ai cũng làm được. Tiếng chuông đầu tiên phải cất lên
đúng vào lúc 3 giờ 30 mỗi sáng, đều đặn trong một tiếng
đồng hồ và phải đủ 108 dùi (lần gõ). Với người tu luyện
chưa có đủ công phu thì chắc chắn sẽ không làm chủ được
bản thân để mỗi sáng thức dậy đúng và đủ thời gian
để đánh đủ 108 tiếng chuông trong thời gian 60 phút mà không
phải canh đồng hồ hay dùng bất cứ phương pháp nào để
giữ nhịp. Mỗi sáng sau khi thức dậy tĩnh tọa hành thiền,
người đánh chuông bước xuống khỏi thiền sàn và đi trong
bước chân thiền từ tăng phòng đến tháp chuông, đánh tiếng
đầu tiên đúng vào lúc 3 giờ 30, không được sai lệch. Giai
thoại thiền môn kể rằng, cố hòa thượng Thích Đôn Hậu
là một thiền sư gắn liền nhiều nhất với hạnh nguyện
đánh chuông.
Lúc
sinh thời, những khi còn khỏe, hòa thượng vẫn thường thức
dậy đánh chuông hằng đêm và tiếng chuông của ngài có âm
thanh vang vọng thanh thoát một cách lạ thường. Những người
cao niên ở các làng xung quanh khu vực chùa Thiên Mụ như Nguyệt
Biều, An Ninh Thượng, Long Hồ, Ngọc Hồ, Lựu Bảo, Xuân Hoa...
cho biết, khi nào hòa thượng đi vắng hay đau ốm là biết
liền. Bởi tiếng chuông được người khác thay thế là biết
ngay; âm sắc và nhịp điệu của tiếng chuông sẽ khác hẳn.
Tiếng chuông Thiên Mụ ngoài âm sắc của tiếng đồng được
chế tác bằng một kỹ thuật đúc truyền thống hoàn hảo,
nó được vang xa nhờ vào vị trí đặt chuông trên đồi cao,
lại có dòng sông Hương trải dài như một chất dẫn truyền
tự nhiên huyền diệu... Nhưng trên tất cả những yếu tố
ấy còn có ẩn chứáa một âm sắc vi diệu khó diễn đạt
từ chính công phu thiền định và hạnh nguyện từ bi được
chuyển tải trong mỗi tiếng chuông của người hành đạo.
Ngày
nay, trước hàng vạn tạp âm của nhịp sống đô thị, tiếng
chuông Thiên Mụ hằng đêm vẫn giữ nhịp thời gian, gửi
vào trần thế tiếng thiền vi diệu.
Tháp
Phước Duyên
Tháp
Đại Lão Hoà Thượng Thích Đôn Hậu
(Thanh
niên )