Trong việc tu hành, Quả Vị cao của các bậc Thánh chính yếu là nương
nơi Lý Tánh (Tánh Không). Nhưng chúng ta đều là người sơ cơ, trong Sáu
Nẻo Luân Hồi dù rằng may mắn được thân người nhưng vẫn còn lẩn quẩn
trong vòng sanh tử, nói thẳng đều là phàm phu tục tử. Cho nên mình phải
biết căn cơ và vị trí của mình trong hiện tại để bước đi cho vững chắc.
Vì sao như vậy? Vì ngày, tháng, năm, tuổi không chờ đợi. Trong Kinh nói,
những cõi nước khác thọ mạng người dân tính bằng số kiếp, tính theo
thời gian ở cõi này không biết bao nhiêu triệu năm. Còn thọ mạng của
loài người ở cõi này chỉ mấy mươi năm, rất ngắn ngủi. Một ngày ở cõi
Trời Tứ Thiên Vương bằng 50 năm ở cõi người, còn ở cõi Trời Đao Lợi thì
một ngày bằng trăm năm ở cõi người. Thế nên đời sống con người ngắn ngủi
không bền lâu. Chỉ vì chúng ta là phàm phu mê tối được một ngày thì cho
là dài lâu, được một tháng hay một năm lại lầm tưởng là lâu hơn. Kỳ
thật, thời gian qua rất mau do đó mình phải tranh thủ thời gian ngắn
ngủi này đừng để lãng phí.
Tôi từ lúc vào chùa, biết được Phật Pháp, trước tiên là tụng thuộc
lòng KINH PHỔ MÔN. Các huynh đệ nên nhớ tụng nghĩa là phải thuộc lòng.
Tôi biết được công hạnh của Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM liền nghĩ rằng: Bồ Tát
QUÁN THẾ ÂM làm lợi ích rộng lớn cho chúng sanh như thế, mình cũng phải
làm gì để đem lại lợi ích cho mọi loài? Mình bây giờ lẩn quẩn chỉ lo ăn,
lo uống, hoàn cảnh xung quanh toàn là những chuyện phàm phu tục tử,
phiền não nghiệp chướng. Từ đó tôi mới lập chí. Tôi thường ra nơi thờ
Ngũ Hành trong Chùa Vạn Linh (Núi Cấm) ở đó thanh vắng, một mình để học
thuộc Kinh. Chỉ trong hai tháng, thời công phu sáng chiều, tôi thuộc làu
hết. Lúc tôi xuất gia vô chùa không có Áo Tràng để mặc. Mỗi khi tụng
Kinh ở Chánh Điện thì tôi phải mượn. Lúc đó có cô Phật tử cúng bốn thước
vải nâu, yêu cầu tụng 60 biến Phẩm Phổ Môn. Các thầy bảo tôi nên nhận
lãnh phần này để được vải Nâu may Áo Tràng mặc đi tụng Kinh. Tôi hứa
nhận, chỉ một ngày tôi thuộc Phẩm PHỔ MÔN. Nhờ đó tôi biết rõ bổn phận
của mình phải làm gì để lợi ích chúng sanh, trong khi thời gian lại quá
ngắn. Tôi sức khỏe lại yếu kém, trong đại chúng là người ốm yếu nhất.
Tôi biết chữ Hán, nên chùa giao việc viết sớ cầu an cầu siêu. Lúc đó
lá sớ phải viết sẵn bằng tay, khi có việc thì điền tên thí chủ vào. Do
đó chùa cất cho tôi cái cốc, chiều ngang 1,5m , chiều dài 2,5m làm bằng
tranh, tre. Tôi lấy tấm ván làm cái bàn để trên đầu giường, ngồi trên
đầu giường để viết sớ. Nhưng tôi mượn việc viết sớ để có chỗ tịnh tu,
giành thời gian tụng Kinh niệm Phật thêm bốn thời nữa, chưa tính thời
khóa nơi Chánh Điện của chùa. Tôi lại nghe nói tu hành phải khổ hạnh nên
không ngủ, đến nỗi ngồi thọ trai mà chén cơm rơi xuống đất lúc nào cũng
không hay. Tôi không ăn cơm, chỉ ăn rau rừng, đến khi đi lên những dốc
cao trên núi bước lên không nổi. Cuối cùng tôi từ bỏ lối tu này. Về sau,
tôi đọc Tạp Chí Từ Bi Âm (tờ báo này mỗi tháng đều được gởi lên tận
chùa) của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, trụ sở đặt tại Chùa Linh Sơn
(Sài Gòn). Trong tạp chí ấy, tôi đọc được một đoạn KINH PHÁP, trong tâm
rất vui thích (lúc đó là năm 1938). Qua năm sau, tôi nghĩ phải đến
trường để học Phật Pháp, vì có học có hiểu biết đúng thì tu hành mới
đúng Chánh Pháp.
Năm 1940, tôi ra Huế được học ở Trường Phật Học Báo Quốc. Tôi đọc
Kinh Quán Vô Lượng Thọ, y theo đó lập hạnh cho mình. Trong Kinh nói:
“Người muốn sanh về Cực Lạc phải có Ba Hạnh: 1. Tin sâu nhân quả. Tôi
từ trước đến giờ biết điều nào lành thì làm, điều nào ác thì tránh. Nên
đối với đạo lý nhân quả cũng rất tin tưởng; 2. Đọc tụng kinh điển Đại
Thừa; 3. Khuyến tấn hành giả”.
Cuộc đời tu hành của tôi nhất định phải làm được Ba Điều này để sanh
về Thế Giới Cực Lạc. Hiện tại, tôi nhận thấy những điều này đã đem lại
kết quả tốt, tương lai cũng tốt. Tôi y theo Điều Thứ 2 (đọc tụng kinh
điển Đại thừa) nên hễ thích Kinh nào thì tụng thuộc lòng Kinh đó. Nhờ
tụng thuộc lòng, dù ở hoàn cảnh nào, đi đứng nằm ngồi đều có thể tụng
Kinh được. Còn ở Chánh Điện trước bàn Phật mở Kinh ra thì gọi là đọc.
Cho nên ý nghĩa giữa đọc và tụng rõ ràng không nên hiểu sai lệch.
Năm 1945, lúc nhập thất 49 ngày tại Chùa Kim Huê (Sa Đéc), ban ngày
tôi xem Tạng Luật, ban đêm thì đọc KINH HOA NGHIÊM. Lúc đến Phẩm PHỔ
HIỀN HẠNH NGUYỆN lòng tôi vui mừng như người đi xa được trở về cố hương,
cảm thấy rất quen thuộc, chỉ mấy ngày thôi tôi đã thuộc lòng Phẩm Kinh
này. Từ đó,tôi lập thời khóa riêng của mình: tụng Phẩm PHỔ HIỀN HẠNH
NGUYỆN, bài kệ Phẩm Phương Tiện trong KINH PHÁP HOA, Phẩm PHỔ MÔN, KINH A
DI ĐÀ, rồi niệm Phật hồi hướng Tây Phương Cực Lạc.
Năm 1947, tại Trường Liên Hải Phật Học, vào đêm 30 tháng 3 âm lịch,
tôi chợt nghĩ: mùng 8 tháng 4 âm lịch này là lễ Phật Đản, mình lấy gì để
cúng dường lên Đức Phật? Mình nhất định phải học thuộc KINH KIM CANG để
đến ngày đó cúng dường Phật. Đến ngày mùng 7 tháng 4 âm lịch, tôi nhờ
Thầy Tắc Phước (bây giờ là Hòa thượng trụ trì Chùa Phước Huệ ở Úc), cầm
bút dò theo. Nếu tôi đọc sai thì biết để sửa. Tôi tụng Kinh xong thì
Thầy Tắc Phước nói không sai chỗ nào hết. Từ đó trở về sau, tôi đưa thêm
KINH KIM CANG vào thời khóa của riêng mình thành Năm Bộ Kinh: KINH PHỔ
HIỀN HẠNH NGUYỆN, KINH KIM CANG, bài kệ Phẩm Phương Tiện trong KINH PHÁP
HOA, Kinh PHỔ MÔN, Kinh A DI ĐÀ, rồi niệm Phật hồi hướng về Cực Lạc.
Tôi giữ kỹ thời khóa tu tập, mỗi ngày đều phải thực hành đều đặn chưa
từng bỏ sót.
Tôi nói chân thành với các huynh đệ rằng, sự tướng không thể bỏ được.
Lấy sự tướng của việc tụng Kinh, niệm Phật để chống lại sự tướng của Ba
Độc: tham, sân, si, phiền não, già, bệnh, chết. Ngày tháng không thể bỏ
qua, nó thúc đẩy mình tiến đến chỗ chết mà thôi. Như tôi năm nay 95
tuổi, qua sang năm là 96 tuổi, không thể trở lại 94 tuổi được. Thân này
mầm bệnh tật bao vây từ trong đến ngoài, nó luôn chờ dịp để sanh khởi
lên. Còn trước mặt là tấm bảng già yếu, bệnh tật, chết chóc, chui đầu
vào đó mà thôi. Ai cũng phải đến chỗ đó hết, chỉ sớm hay muộn. Thân này
là như vậy, kết cuộc của thân là như vậy. Mọi người phải nhận hiểu rõ
ràng, chớ nên mê lầm. Tôi cũng có Ba Điều để dìu dắt mọi người, xuất gia
cũng như tại gia. Vì người tin được thì sẽ thực hành theo:
1. ĂN CHAY phải thiết thực. Vì mỗi ngày ăn thịt chúng sanh thì điều
ác nào chẳng dám làm, việc thiện nào có thể sanh khởi được? Bởi vì loài
vật bị giết bị nấu bị nướng thì con người mới có thịt ăn. Vả lại, đạo
Phật lấy Từ Bi làm chánh, nhưng ăn thịt chúng sanh thì đâu còn Từ Bi
nữa. Ăn chay có những lợi ích gì:
· Không vướng mắc vào nhân quả của Nghiệp Giết Hại. Nghiệp Sát Sanh ở
thế gian rất nặng, vì chúng sanh bị bắt giết thì chúng ta mới có thịt
ăn.
· Ăn chay vì tình thương không nỡ ăn thịt loài vật. Tình thương phát
sanh thì mong muốn mọi loài đều được an vui, do đó làm các việc lành.
Như thế Tâm Từ đã sanh ra. Ví như mình thương người em, người cháu thì
đâu muốn nó khổ, đã không muốn nó khổ thì không làm những việc bất
thiện. Do vậy, Tâm Bi cũng sanh khởi mà làm các việc lành. Tâm Từ Bi có
được cội gốc do ăn chay mà thành. Thuở nhỏ những người bạn trong xóm sắm
giàn thun để bắn chim, tôi cũng làm theo. Bạn bè sắm cần câu để câu cá,
tôi cũng sắm cần câu đi câu theo. Từ lúc biết ăn chay, tôi thấy con gà,
con chim,các con vật khác thì thương nó lắm. Nếu người ăn thịt thì tình
thương không thể phát sanh. Ví như chúng ta có con em, mỗi ngày mình ăn
thịt nó mà cho rằng thương nó thì không được. Tình thương phát sanh ảnh
hưởng nơi “Từ” thì làm lành, nơi “Bi” thì không làm ác. Điều Thiện Lành
thì tăng thêm, việc Xấu Ác ắt giảm dần và dứt sạch. Như vậy chúng ta ăn
chay tự nhiên làm được hai việc mà Đức Phật từng dạy: “Từ bỏ các việc
ác, luôn làm các việc lành”. Do đó Tâm Từ Bi là cội gốc để đi lên con
đường Hiền Thánh.
2. Trong KINH LĂNG NGHIÊM, đoạn Đức Phật nói BA MÓN TIỆM THỨ. Trước
tiên không được ăn Ngũ Tân (Hành, Hẹ, Tỏi, Nén, Hung Cừ). Vì tính chất
của Ngũ Tân làm tăng tham dục và sân hận, ảnh hưởng của nó là quyến rũ
Ngạ Quỷ, Chư Thiên cùng Thiện Thần đều tránh xa. Nó hay trợ giúp phát
sanh Nghiệp Phiền Não. Cách đây ít hôm, có người xưng là Quỷ Vương nói:
“Tôi lên đây để đấu với Hòa Thượng, nếu Hòa Thượng thua thì tất cả binh
tướng của tôi sẽ chiếm chỗ này”. Sáng hôm đó, tôi đang ngồi uống thuốc
Tam Tài thấy có một người đàn ông và một người đàn bà. Người đàn ông thì
đứng chắp tay, còn người đàn bà thì uốn mình như con rắn (có thể thuộc
loài Ma Hầu La Già) rồi quỳ xuống lạy, lạy xong rồi đi xuống. Tâm tôi
cũng không để ý chỉ nhìn thấy vậy thôi. Sau đó tôi nghe mấy Thầy nói họ
lên Chánh Điện ngồi niệm Phật một ngày một đêm. Các Thầy kể lại đã hỏi
họ rằng: “Sao không thấy đấu với Hòa Thượng mà quỳ lạy rồi đi xuống?”.
Người kia nói: “Tôi nhìn thấy Hòa Thượng sợ quá nên quỳ xuống lạy chứ
không dám làm gì hết”.
Các Thầy hỏi, lúc đó Sư Ông có bắt ấn hay niệm Chú gì không? Thật ra,
tâm tôi không để ý tới. Tôi nói việc này để các huynh đệ biết, mình
sống ở đây các loài Ngạ Quỷ hạng cao đầy dẫy. Cho nên Phật nói, nếu ăn
Ngũ Tân sẽ ảnh hưởng đến các loài đó. Bây giờ nhiều chùa ngập tràn mùi
vị Ngũ Tân. Cho đến các chùa xung quanh Tỏi, Hành (Ba Rô) treo đầy trong
nhà bếp. Các huynh đệ muốn giữ điều này cũng khó lắm, vì mỗi ngày phải
đi đám, người ta nấu thức ăn bỏ hành bỏ tỏi, nếu không dùng thì nhịn
đói. Do vậy tôi không đi dự các đám cúng. Từ trước đến giờ tôi chưa bao
giờ dùng Năm Thứ Rau Cay này. Có khi xuống Chùa Huệ Nghiêm (Bình Chánh)
tôi phải dặn không được bỏ Ngũ Tân vào thức ăn. Lúc đến các chùa dùng
cơm chay mà có mùi vị này thì tôi chỉ ăn chút cơm và bánh ngọt rồi về.
3. Từ trên nền tảng đó tu hành CHÁNH NIỆM: niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng. Niệm Phật là trì niệm danh hiệu Nam Mô A DI ĐÀ Phật. Niệm Pháp là
tụng Kinh. Niệm Tăng là niệm danh hiệu Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM, Bồ Tát ĐẠI
THẾ CHÍ, Bồ Tát ĐỊA TẠNG VƯƠNG. Trong đó lấy niệm Phật làm chánh, mỗi
ngày đều thực hành như thế thì Chánh Niệm dần dần tăng lên, Thiện Căn
cũng từ đó thêm lớn, Công Đức và Phước Đức cũng từ đó tăng trưởng. Trong
sinh hoạt hàng ngày, có những điều giúp mình tăng Phước và giảm Phước
mà chúng ta không để tâm lưu ý. Trong Mười Đại Nguyện Vương của Bồ Tát
PHỔ HIỀN, Điều Nguyện Thứ Năm là “Tùy hỷ công đức” dễ thực hành lắm, lấy
công đức của người làm công đức của mình. Đây là Pháp tu thong thả nhẹ
nhàng. Đối với các việc lành của người, chúng ta không vui mừng lại còn
ngăn cản chê trách thì tổn phước. Còn tùy hỷ (vui mừng theo) thì Phước
Đức tăng thêm. Chẳng hạn có người xây một ngôi nhà lớn, khách bước vào
khen ngợi khang trang mát mẻ thì người chủ liền vui. Một người khác lại
cho rằng, nhà rộng quá dọn dẹp mệt thêm. Người chủ nghe được cũng hơi
buồn. Như lúc xây Chánh Điện Chùa Vạn Đức, có người khen ngợi Cây Bồ đề
cao đẹp quá. Nhưng có người lại nói nhìn lên Cây Bồ Đề quá cao thật mỏi
cổ. Chỉ một việc nhỏ này, một bên tăng Phước, một bên tổn Phước. Các
huynh đệ lưu ý để ứng dụng trong đời sống thường ngày, những điều tăng
Phước thì nên làm. Những điều tổn Phước thì nên tránh. Mỗi ngày tích lũy
một ít thì Phước Đức từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn. Ngày tháng
qua mau, các huynh đệ lấy ĂN CHAY làm nền tảng, luôn lấy việc NIỆM PHẬT
TỤNG KINH làm Công Đức Xuất Thế. Từ những điểm này gắng sức giữ gìn, rồi
tu thêm các việc lành khác. Mong các huynh đệ ai nấy đều nhất tâm tinh
tấn, vững bền ở trong Giáo Pháp của Phật. Phải khắc ghi hai chữ VỮNG BỀN
này.
HT Thích Trí Tịnh