| 
 Anh  em cười nói rộn ràng và bày ra một cuộc đàn hát vang dội. Giữa 
chừng có  một anh chàng từ nhà kế cận vọt bao lơn sang và tỏ ý muốn 
chung vui.  Anh ra dáng thư sinh, vui vẻ, dễ mến. Tôi nghe giới thiệu 
mới biết đó là  Trịnh Công Sơn hiện ở trên con đường này cùng với gia 
đình có cửa tiệm  là “Thanh Tâm” buôn bán phụ tùng xe gắn máy. 
 Hôm ấy mọi người mải hát và nghe hát, chẳng chuyện trò được nhiều nên sau đó tôi không gặp lại Sơn. 
 
| 
 |  
| Nhìn từ tầng 2 ở tập thể Nguyễn Trường Tộ là nơi gia đình Trịnh Công Sơn đã sinh sống |  
 Mãi  đến năm 1963, là năm tôi vào Saigon khởi sự làm báo và ở đậu một
 góc  căn gác gỗ chân cầu Trương Minh Giảng, một hôm bỗng đâu Trịnh Công
 Sơn  đến gặp tôi ở đây. Và lại có mẹ của anh đi cùng. Anh đã được Đinh 
Cường  và Ngô Kha chỉ chỗ ở của tôi. Đây mới là lần thứ hai tôi gặp 
Trịnh Công  Sơn, thêm vào đó căn gác gỗ của tôi quá chật chội và lôi 
thôi, tôi tỏ ra  vô cùng lúng túng. Nhưng tôi rất mừng được gặp anh lần 
này sau khi nghe  Ngô Kha tán dương những bài hát đầu tiên của anh mà 
tôi chưa được  thưởng thức. 
 Đó là thời gian Trịnh Công Sơn đang chôn chân vào trường Sư Phạm Quy Nhơn. 
 Năm  sau, 1964, tôi từ Saigon lên Bảo Lộc để ở lại với Sơn vài ngày 
tại đây  là nhiệm sở của Sơn và nhân thể nhìn ngó tận mắt chỗ ở và chỗ 
làm việc  của bạn. Tôi lên đến miền đất đỏ này vào buổi chiều, gặp lúc 
Sơn đang  đứng lớp, nhưng tôi cũng được phép vào phòng Sơn: phòng, bàn 
ghế khá bề  bộn, giường ngủ buông mùng, và cái đập vào mắt hơn cả là bao
 thuốc lá  vứt vãi tứ tung. Nằm trên giường bạn và nhìn quanh, tôi nhận 
ra căn  phòng này dễ xua đuổi hơn là ấp ủ chủ nhân, bởi lẽ chỉ toàn mùi 
thuốc  lá, ẩm mốc và lạnh lẽo. Kim chỉ dây dưa, tôi nghĩ thêm rằng nghề 
dạy học  không phải dành cho anh chàng phóng khoáng và tài hoa Trịnh 
Công Sơn. 
 Hàng tuần, anh đi đi về về Saigon - Bảo Lộc. 
 Đến  1965, anh bỏ dạy hẳn. Anh đi Dalat và lần đầu tiên gặp Khánh Ly ở
 đây.  Cô ca sĩ này đang hát ở một hai phòng trà nơi thành phố mộng mơ. 
Ngay từ  lúc đầu, hai người tỏ ra hợp nhau. Trịnh Công Sơn xem Khánh Ly 
là người  em thân thiết và đúng là ca sĩ nhanh nhạy, thông minh, có chất
 giọng  phù hợp với ca khúc của mình hơn cả. Khánh Ly không những hát 
toàn vẹn  bài hát mà thôi, còn hát từng câu, và không những hát từng câu
 mà hát  từng chữ một, tròn trịa, đầy đặn, nâng niu. Đó là chưa kể nốt 
luyến, nốt  ngân, nốt buông, nốt vỡ, nốt lặng. 
 Trịnh Công Sơn cùng với Khánh  Ly (quyết định từ giã phòng trà Dalat)
 về Saigon mở ra phong trào hát  giữa sinh viên thanh niên: tại trụ sở 
sinh viên gần hồ Con Rùa, tại sân  bỏ hoang của Đại học Văn Khoa. Trịnh 
Công Sơn với cây đàn thùng, Khánh  Ly trật dép ra đi chân đất, cùng hòa 
mình vào phong trào tranh đấu vì  hòa bình của sinh viên. 
 Cũng năm này, Trịnh Công Sơn đến ngủ đất tại chỗ ở mới của tôi: cư xá sĩ quan Chí Hòa, đường Bắc Hải. 
 Năm  sau, 1966, tôi lại đến chỗ ở mới tại đường Lý Thái Tổ để cùng 
làm việc  với Trương Phú, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm. Và nơi đây sẽ 
là nơi lui  tới thường xuyên của Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Bùi Giáng, 
Phạm Công  Thiện, Nguyễn Đức Sơn. 
 Năm 1968, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trình diễn ở Huế. Nhưng không ngờ khán giả khá mất trật tự nên cả hai không hài lòng lắm. 
 Năm  1969, ở Huế, có một giáo sư người Pháp trẻ tuổi tên là Rossignol
 mời  Trịnh Công Sơn, Đinh Cường và tôi đến nhà dùng cơm. Vào tới nhà, 
chúng  tôi khá ngạc nhiên khi nhìn thấy từ tầng trệt lên tới lầu, khắp 
nơi  trang trí toàn những loại vàng mã, từ các loại áo dấu đến hia và 
nón.  Chủ nhân mê các màu sắc sống nóng, các loại giấy bổi và các hình 
tượng  nam nữ cách điệu này lắm. Đứng trước cái sở thích khác người này,
 chúng  tôi đành cười tràn. Ngồi vào bàn, chúng tôi chuyện trò đủ thứ để
 khuất  lấp sự chờ đợi. Cuối cùng món khai vị được đưa ra: mỗi người 
lãnh một tô  to tướng. Anh bạn người Pháp cười hả hê như thể đã có sáng 
kiến bày ra  món này. Trịnh Công Sơn biến sắc mặt: đó là một tô canh 
mướp đắng! Thừa  lúc chủ nhà đứng lên đi xuống bếp, Sơn nói ngay: “Nhà 
mình bắt ăn thứ  này mãi phát ngán, bây giờ đến nhà Tây cũng gặp lại, mà
 lại còn cả một  tô, ai ăn cho hết? Khai vị kiểu chi đây?” Chịu thôi: 
phải ăn cho hết mới  đến món sau. Đó là một bữa ăn nhớ đời. 
 Năm 1970, Trịnh Công Sơn  trình diễn “Tự tình khúc” tại trung tâm văn
 hóa Phật giáo Liễu quán ở  Huế. Cũng năm này Phạm Công Thiện ra Huế 
chơi, đúng vào mùa mưa lụt.  Buổi sáng, dù trời còn mưa, chúng tôi đi về
 Vỹ Dạ. Đi ngang qua Đập Đá,  nước đục ngàu xăm xắp con đập. Có bạn nào 
đó ngồi trên xe lo sợ đi về Vỹ  Dạ đến hồi trở lên nước có thể lên cao. 
Nhưng rồi vẫn đi. Xuống tới Vỹ  Dạ, Phạm Công Thiện đi thăm nhà thơ Võ 
Ngọc Trác và buổi trưa ở lại.  Chiều quay xe trở lên thì Đập Đá ngập 
nước. Tính liệu không thể qua đêm ở  Vỹ Dạ, người bạn lái xe lao tới. 
Qua được nửa đường con đập, đột nhiên  xe chết máy vì nước vào đến máy 
xe. Trịnh Công Sơn và tôi xanh mặt. Phạm  Công Thiện đọc kinh “tai qua 
nạn khỏi” bằng tiếng Phạn: “Hare Rama…”.  Tài xế bình tĩnh thử máy một 
hồi thì lát sau đã nghe tiếng máy rồ. Chiếc  xe nhích từng bước, bò từng
 bước, và cuối cùng cũng qua được bên kia  Đập Đá. Khỏi phải nói, đồng 
loạt mọi người thở phào! 
 Năm 1971, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly hát ở trường Quốc gia Âm nhạc Huế. Và lần này có thêm Phạm Duy. 
 Xong  buổi hát, mọi người kéo nhau sang trường Đại học Mỹ thuật gần 
kề và  tiếp tục hát chung quanh cốt tượng Phan Bội Châu của Lê Thành 
Nhơn. 
 Những  năm bảy mươi này, tôi thường tá túc ở nhà Trịnh Công Sơn ở Phú
 Cam. Đây  là thời gian “trốn lính” cao điểm của chúng tôi. Một đêm nọ, 
cảnh sát  dã chiến bao vây cả khu vực này và sục sạo từng nhà một. Nghe 
động, mẹ  của Trịnh Công Sơn giục giã con trai trong nhà trốn gấp. Em 
trai của Sơn  thoát nhanh, đến phiên Sơn cũng thoăn thoắt trèo lên cánh 
cửa và nhảy  thót lên trần nhà. Cơ khổ cho tôi cứ trèo lên trật xuống, 
phải đứng lên  hai vai em gái của Sơn, vậy mà vẫn không tài nào nhảy lên
 trần nhà được,  đành buông tay làm rớt cả một dãy móc quần áo đính vào 
cửa. Và tôi ngồi  xuống giường chờ cảnh sát xộc vào. Chẳng hiểu sao, 
cảnh sát đi ngang  qua và đi thẳng. 
 Năm 1974, Sơn cùng tôi đi Dalat đón Noel. Ngay  hôm đầu tiên, chiều 
lại, Sơn cùng tôi đến một cái quán đường Hai Bà  Trưng vì nghe được giới
 thiệu là quán điều hành do nữ sinh viên. Đến  nơi, vào quán, tứ bề vắng
 ngắt. Sơn chột dạ: “Quán chẳng ra quán chi  cả.” Hai chúng tôi đứng 
lên, đi tới đi lui, vẫn chẳng có ai xuất hiện.  Sơn lên giọng hướng vào 
bên trong: “Có ai ở đây không?” Mãi lâu sau, có  một cô xuất hiện, dáng 
rụt rè. Sơn bảo: “Sao bán hàng quán mà lâu vậy?  Có bia thì đem ra. 
Nhanh lên, nghe.” Lại phải đợi thêm một hồi nữa,  thiếu nữ lúc nãy mới 
trở ra lại với chai và cốc trên tay. Sơn nói một  thôi: “Chúng tôi trước
 khi rời Huế đi Dalat đã được nghe giới thiệu quán  này là một địa điểm 
sinh động, trẻ trung, phục vụ mau mắn, vui vẻ. Bây  giờ tới đúng nơi lại
 cảm thấy vắng vẻ, chậm rãi quá. Không hiểu vì sao?  Cô có thể cho biết 
được không?” 
 Cô gái nãy giờ cứ chăm chăm nhìn  Sơn và dáng điệu ấp úng thấy rõ. Bị
 hỏi dồn, cô phải trả lời: “Thưa các  anh, chỗ này không phải là hàng 
quán chi cả. Đây là một cư xá của nữ  sinh viên. Bọn em từ bên trong 
nhìn ra đã trông thấy các anh vào và nhận  ra anh là Trịnh Công Sơn. Cho
 nên anh sai bảo gì thì bọn em nghe lời  làm theo thôi!” Thế là bao 
nhiêu lúng túng ngượng nghịu phút chốc đều  trút sang phía Trịnh Công 
Sơn và tôi. Chúng tôi đành cười nói chữa thẹn.  Cô gái nói tiếp: “Tối 
nay bọn em bày lửa trại đón Noel. Mời các anh đến  chơi.” Sau đó, trên 
đường về, chúng tôi chỉ còn nước rủa thầm đứa bạn  đã giới thiệu quàng 
xiên. 
 Cũng năm 1974, Trịnh Công Sơn đến với  Đại học Cộng đồng duyên hải 
Nha Trang. Cùng sinh hoạt với anh, có thêm  Đinh Cường, Lê Thành Nhơn, 
Huy Tưởng, Đặng Ngọc Vịnh và tôi. 
 Năm  1975, tháng ba, giải phóng Huế, Trịnh Công Sơn ở Saigon, Tôi nôn
 nóng  gọi anh ra Huế. Và tháng chín, Trịnh Công Sơn có mặt tại Huế. 
 Anh  về lại căn hộ ở cầu Phú Cam. Anh em bạn bè hàng ngày lui tới với
 anh,  ngủ lại với anh, cho anh bớt trơ trọi. Anh vốn quảng giao, cởi 
mở, quen  biết nhanh và nhiều. Tôi nhớ có một hôm Trịnh Công Sơn đèo tôi
 trên xe  đạp dạo chơi trong Thành Nội. Đi ngang qua đường Nhật Lệ, có 
một anh  đang dùng kéo cắt hàng rào chè tàu trước mặt nhà. Anh này trông
 thấy  Sơn, dừng tay kéo, đưa tay lên vẫy. Sơn chào lại: “Cắt chè tàu, 
hả?” Anh  kia đáp: “Ừ, cắt chè tàu.” Rồi Trịnh Công Sơn tiếp tục đạp xe,
 chẳng  biết người mình vừa chào là ai. 
 Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giã Huế vào hẳn Saigon. 
 Năm  1982, tôi vào Saigon, đến Sơn, đường Phạm Ngọc Thạch. Vừa vào 
tới, gặp  nhau, Sơn hỏi tôi có đói bụng không và gọi bà bán trứng vịt 
lộn vừa mới  rao trước cửa ngõ. Tôi đói bụng ăn liền hai trứng, trong 
khi Sơn chưa  kịp bắt đầu. Anh nhìn vỏ trứng trước mặt tôi, hỏi: “Ông ăn
 hai cái rồi  à? Ăn chi mau khiếp vậy?” Và Sơn nhìn tôi ăn tiếp, còn anh
 không ăn. Tôi  ái ngại nhìn bạn và biết Sơn rất muốn ăn nhưng ăn không 
xuống, như  thường ngày vậy. 
 Năm 1989, tôi gặp Sơn tại Paris. Đêm hát tại  Paris này, ngoài Trịnh 
Công Sơn, còn có Michiko, Nguyễn Quang Sáng,  Thanh Hải. Và tôi giới 
thiệu chương trình. Việt kiều ở đây mừng vui gặp  Trịnh Công Sơn. Buổi 
hát chấm dứt, các bạn trẻ mời mọc anh đi nơi này  nơi khác. Anh cũng tha
 hồ thưởng thức rượu ngon tại kinh đô ánh sáng đến  độ, phút chia tay, 
anh hôn nhầm thắm thiết một anh bạn trẻ. 
 Trịnh  Công Sơn còn dịp về Huế sau năm 1979 rời căn hộ ở cầu Phú Cam:
 1983 (về  Huế với Phạm Trọng Cầu, Hoàng Hiệp, Trần Long Ẩn), 1990 (để 
quay phim  với hãng BBC), 1993, 1995 (trình diễn hai đêm “Những bài ca không năm tháng”), 1996 (làm giám khảo thi sắc đẹp “Duyên dáng cố đô”), 1998 (khánh thành Morin tái thiết), 2000… 
 Năm  2000, ngày 13 tháng 4, Trịnh Công Sơn có mặt tại Huế - ngờ đâu 
đây là  lần cuối cùng - giữa lúc đang diễn ra Festival Huế 2000 
(Festival lần  này tổ chức từ ngày 8 đến 19.4 chứ không phải là tháng 6 
như những lần  sau) và nói với tôi: “Festival mình không được ai mời 
nhưng mình vẫn về  Huế”. 
 Bửu Ý 
 (266/4-11) 
 http://tapchisonghuong.com.vn/index.php?main=newsdetail&pid=75&catid=97&ID=7662&shname=Ngay-thang-vui-buon-voi-Trinh-Cong-Son |