Tôi chưa phải là Phật tử nhưng 
là người rất mến mộ Đạo Phật. Tôi thành tâm ngưỡng mộ tính nhân văn cao 
cả và tình yêu bao la của đạo Phật thấm đẫm đối với mọi chúng sinh. Tôi 
cảm động khi thấy mái chùa Việt từ bao đời là nơi chở che cho thân phận 
của biết bao cảnh đời nghèo khó. Trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn 
năm, Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hộ quốc an dân!
Năm 2008 trong Đại lễ VESAK liên hiệp 
quốc do Việt Nam đăng cai tổ chức, lần đầu tiên tôi trông thấy đức Pháp 
chủ Thích Phổ Tuệ, dù chỉ trên màn ảnh truyền hình. Khung cảnh của Trung
 tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình hôm ấy thật vô cùng hoành tráng, đến nỗi 
làm nhiều đại biểu quốc tế cũng phải sững sờ và thán phục. Cụ Pháp chủ 
xuất hiện cùng với Chủ tịch nước trong tiếng vỗ tay chào đón nồng nhiệt 
của hơn 4.000 đại biểu trong nước và quốc tế. Tôi nhìn thấy nét mặt đức 
Pháp chủ Thích Phổ Tuệ vẫn ung dung tự tại. Ngài bình tĩnh bước đi, 
khoan thai và nhẹ nhàng, tay lần tràng hạt!
Lần
 thứ hai tôi lại chú ý đến nét mặt của đức Pháp chủ là trong lễ hô thần 
nhập tượng tại chùa Bái Đính. Theo như tường thuật thì hôm ấy đã xảy ra 
sự cố nhỏ trong khâu tổ chức. Đức pháp chủ Thích Phổ Tuệ quang lâm chứng
 minh. Đến dự về phía chính phủ có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Khi đèn 
nến tắt, hàng trăm người đổ xô vào khu trung tâm dành cho các lãnh đạo 
quốc gia và các vị tôn túc giáo phẩm, gây nên khung cảnh hỗn loạn. Nhiều
 người tỏ ra vô cùng lo lắng. Trong bối cảnh ấy, tôi trông thấy nét mặt 
của đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ vẫn rất bình thản, không lộ ra chút gì 
bối rối. Cụ vẫn ung dung tự tại, tay lần tràng hạt! 
Từ hôm đó, tôi bắt đầu tìm đọc các tài 
liệu viết về đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ. Tôi đã thực sự khâm phục trước 
tầm vóc kỳ vĩ của con người với gần 100 năm cống hiến cho đạo pháp và 
dân tộc!
Đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ xuất gia khi 5
 tuổi. Sau hòa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1954 cụ không sang Nhật du 
học như trào lưu lúc đó mà về chùa Ráng,  xã Quang Lãng, huyện Phú 
Xuyên, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) để nối dòng Tổ thuộc Sơn Lâm Đa Bảo.
Trong suốt cuộc đời gần một thế kỷ cống 
hiến cho đạo pháp, đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ đã tham gia các Hội đồng 
biên soạn, dịch thuật và xuất bản nhiều tác phẩm kinh điển của Phật giáo
 bao gồm: Từ điển Phật học, Kinh Bách dụ, Phật Tổ tam kinh, Bát nhã dư 
âm, Đề cương kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Đại luật, Đại tạng kinh 
Việt Nam.
Cuộc sống thường nhật của đức Pháp chủ 
Thích Phổ Tuệ cũng là sự tích hiếm có. Cụ vẫn tự nhận mình là nông Tăng,
 tức là nhà sư nông dân vì cả cuộc đời gần 100 năm của cụ gắn bó với 
vùng quê hẻo lánh, xa chốn thị thành – vùng Quang Lãng, Phú Xuyên cách 
thủ đô gần 60 cây số. 
Cụ trực tiếp cày cấy nuôi thân, sinh 
sống bằng nghề làm ruộng cho đến những năm gần 80 tuổi mới thôi. Cụ 
không ra đồng thì lại làm vườn, dọn dẹp trong chùa luôn tay, luôn chân 
không nghỉ. Dưới mắt của những người nông dân trong vùng thì đức Pháp 
chủ Thích Phổ Tuệ không chỉ là vị cao Tăng uyên thâm Phật pháp, đức hạnh
 vẹn toàn mà còn là người nông dân thực thụ với đức tính hay làm, cần cù
 và giản dị.
Trong những năm 60 của thế kỷ trước, 
suốt thời gian dài Phật giáo ở cả hai miền Nam Bắc nước ta đều gặp nhiều
 khó khăn. Trong Nam thì Phật giáo bị chèn ép mọi bề do chính sách thiên
 vị Thiên chúa giáo của chính quyền thân Mỹ. Ở miền Bắc thì nhận thức về
 Phật giáo của bộ phận các cấp chính quyền địa phương còn lệch lạc, 
phiến diện.
Nói
 về khúc quanh lịch sử này đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ đã thẳng thắn chỉ 
rõ: “Rất nhiều năm trước đây, ở miền Bắc nước ta, chùa chỉ là nơi lễ bái
 của các bà già, gần như tuyệt nhiên vắng bóng nam giới và lớp trẻ. Nhà 
chùa u ám, vắng vẻ, khu biệt với đời sống xã hội. Điều đó lỗi một phần 
là do ý thức và cách hành xử của giới lãnh đạo xã hội, một phần cũng là 
do nhà chùa. Nay ngẫm lại vẫn còn thấy man mác ”. (Phattuvietnam.net)
Là nhà tu hành chân chính, cụ Thích Phổ 
Tuệ suốt đời chỉ mong được niệm Phật, cầu kinh không mong cầu danh lợi. 
Khi được suy tôn là đức Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đức 
Pháp chủ đã nói: “Ngôi vị Pháp chủ theo nghĩa cứu cánh tuyệt đối thì duy
 nhất chỉ vị có đầy đủ phúc đức, trí tuệ để gìn giữ, đó là Phật Thích Ca
 Mâu Ni. Nay chúng tôi vì tập thể chư Tăng ủy thác nên phải gắng gượng 
giữ gìn. Điều này đối với pháp tương đối của thế gian có thể coi là sở 
đắc, còn với pháp tuyệt đối xuất thế gian thì vô sở đắc mới là bản 
nguyện của chúng tôi. Chúng tôi không dám lấy việc lạm giữ ngôi vị cao 
quý này làm vinh hạnh “ ( Phattuvietnam.net )
Những điều hiểu biết như vậy về đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ, chúng tôi càng  mong ước sớm có dịp được gặp gỡ trực tiếp với cụ. 
Vào ngày cuối tháng 5 năm 2010, chúng 
tôi mới có dịp về Phú Xuyên thăm đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ. Dạo ấy đang
 độ thu hoạch vụ Chiêm Xuân. Dọc hai bên đường dẫn về chùa Ráng là những
 cánh đồng lúa vàng trải rộng bát ngát, hứa hẹn khung cảnh no ấm của 
làng quê!
Đây là lần đầu tiên về thăm chùa Ráng 
nên ai cũng mong ngóng hồi hộp. Sau khi nhìn thấy biển chỉ dẫn đường tới
 chùa, mọi người đều chăm chú nhìn qua cửa kính, mong được nhìn ngắm từ 
xa ngôi chùa mà đức Pháp chủ đang trụ trì.
Ai cũng nghĩ chắc là ngôi chùa phải 
hoành tráng lắm, có thể nhìn thấy từ rất xa hàng cây số. Xe chạy ngang 
qua đường rẽ vào chùa lúc nào không ai hay biết. Theo sự chỉ dẫn của mấy
 người nông dân đang gặt lúa bên đường, chúng tôi đành phải quay xe 
ngược trở lại.
Ngạc nhiên đầu tiên của chúng tôi là sự 
giản dị và khiêm tốn của chùa Tổ Ráng với bề dày lịch sử cũng gần một 
nghìn năm tuổi. Chùa đứng một mình giữa cánh đồng lúa rộng mênh mông, 
cạnh con đê dài tít tắp. Sau phút ngạc nhiên ban đầu ấy, điều đọng lại 
trong lòng chúng tôi là sự cảm phục và tôn kính sâu sắc đối với bậc chân
 tu ! 
Anh lái xe kể lại là khi hỏi đường đến 
chùa Ráng, người dân nói phải đi qua cây đa Giời ơi. Sở dĩ có tên nghe 
rất lạ tai ấy vì trước đây đoạn đường này vắng vẻ, ít người qua lại, khi
 bị cướp thì người gặp nạn chỉ biết ngẳng mặt kêu Giời ơi một cách vô 
vọng mà thôi !
Bây giờ thì đã khác, cây đa Giời ơi mấy 
trăm năm tuổi vẫn sừng sững đứng đó như chứng nhân lịch sử nhưng đường 
sá đã nhộn nhịp suốt đêm ngày.
Tôi
 nghe xong câu chuyện ấy, liên tưởng đến cảnh vắng vẻ của chùa Ráng mấy 
chục năm về trước. Đức Pháp chủ một mình trong chùa, tự tay cày cấy nuôi
 thân, ngày đêm miệt mài kinh Phật, giữ nguyên nếp Tổ ! Thật cảm phục cụ
 bội phần !
Chúng tôi chưa hết ngạc nhiên vì sự 
khiêm tốn giản dị của chùa thì có thêm ngạc nhiên nữa về chính người trụ
 trì chùa Tổ. Sự giản dị của đức Pháp chủ thì báo chí đã nói đến từ lâu.
 Đúng là trăm nghe không bằng một thấy.
Đức Pháp chủ ra đón khách gần cổng chùa,
 mặc bộ quần áo nâu và đi đôi guốc mộc, loại guốc mà các cụ già ở nông 
thôn nước ta thường dùng mấy chục năm về trước. Quả thật nếu không phải 
đã nhiều lần nhìn thấy hình ảnh của cụ trên báo chí và truyền hình thì 
tôi không sao có thể tin vào mắt mình đây là cụ Pháp chủ của Giáo hội 
Phật giáo Việt Nam. Cụ gọi khách thăm chùa bằng bác:  “Mời các bác sang 
bên này rồi lên thắp hương Tam bảo”.  Một cháu bé ba tuổi đi trong đoàn 
vái chào Hòa thượng, tôi thấy nét mặt cụ bỗng rạng ngời hẳn lên và ánh 
mắt trở nên ám áp lạ thường !
Sau khi thắp hương lễ Tổ, chúng tôi được
 cụ Pháp chủ ban cho bài pháp về Lục hòa. Cụ nói rành rọt, khúc chiết và
 giải thích cặn kẽ mọi điều. Kết thúc buổi pháp thoại, đức Pháp chủ nói:
 “Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời thì 
trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy, làm gì
 có tranh chấp nhau. Tôi nghe nói bây giờ thế giới đang nói về hội nhập 
gì đó. Nếu giữa các nước mà cũng tôn trọng nhau theo tinh thần lục hòa 
thì thế giới đại đồng”. Mọi người đều cảm thấy thấm thía về những lời 
dạy của cụ.
Một người đi trong đoàn lễ phép thưa: 
“Dạ bạch Hòa thượng, con thấy cụ cập nhật và nắm chắc tình hình thế giới
 quá ạ”. Đức Pháp chủ nói ngay, giọng rất vui: “ Vâng thì tôi cũng chịu 
khó nghe đài ấy mà”. Rồi cụ nở nụ cười hiền hậu, phảng phất chút gì đó 
như nụ cười trẻ thơ, làm mọi người thấy càng thêm gần gũi. 
Một người hỏi cụ về một vài sự kiện 
không vui liên quan đến Phật giáo trong thời gian gần đây, tôi thấy nét 
mặt cụ bỗng nhiên trầm hẳn xuống. Một lúc sau cụ mới nói chậm rãi, giọng
 đượm buồn: “Có lẽ cũng tại cái ngã còn lớn đấy thôi”. Ngay sau khi vừa 
nói xong câu ấy, tôi thấy cụ làm động tác như mình đã lỡ lời và thốt 
lên: “Ôi, chúng tôi sai rồi. Chúng tôi không nên nói về người khác như 
thế !”
Tất cả chúng tôi đều bàng hoàng sửng 
sốt! Là Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gần một trăm tuổi đời 
với hơn tám mươi năm cống hiến cho Đạo pháp,  cụ là người có đầy đủ uy 
tín để nói về một sự đổ vỡ nào đó. Thế nhưng không! Cụ tự nhận là mình 
đã sai khi nói về người khác. Thật là bài học về sự khiêm nhường vô cùng
 thấm thía và sinh động của đức Pháp chủ mà chúng tôi được học trong đời
 !  
Lúc chúng tôi xin phép cụ ra về vì lại 
sắp có đoàn khách xin được tiếp kiến cụ, đức Pháp chủ nhìn cháu bé đi 
trong đoàn với ánh mắt rất trìu mến. Cụ xoa đầu cháu, khen cháu ngoan và
 nói với mọi người: “Tương lai của nước nhà, của Phật pháp là ở thế hệ 
các cháu bé này đây!”
Trên đường về lòng tôi cứ bồi hồi xao 
xuyến mãi về những ấn tượng không thể nào quên trong cuộc gặp gỡ với đức
 Pháp chủ Thích Phổ Tuệ. Cuộc đời của cụ thật là một huyền thoại ! Gần 
một trăm tuổi đời, xuất gia từ khi mới lên năm tuổi, gần tám mươi tuổi 
vẫn còn ra đồng làm lụng tự nuôi thân để ngày đêm miệt mài nghiên cứu 
kinh Phật theo nếp của Tổ xưa!
Đức Pháp chủ Thích Phổ Tuệ quả thật là 
bậc Trưởng lão long tượng của Phật giáo Việt Nam, nhân cách lớn lao và 
hiếm có trên cõi đời !
(Trích: Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay số 6)
Xem thêm thông tin về Đại Lão Hòa Thượng Thích Phổ Tuệ:
http://old.thuvienhoasen.org/thichphotue-00.htm