Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh
25/12/2013 13:43 (GMT+7)


Thi sĩ Minh Đức Triều Tâm Ảnh sinh năm 1944 tại Hương Thủy, Thừa Thiên Huế là một bậc tài hoa đủ điệu : Nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo, nhà thư pháp, nhà mỹ thuật tạo vườn cảnh đồng thời là một đại sư theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Nam tông với pháp hiệu Giới Đức. Xuất gia năm 1973 ở Vũng Tàu rồi làm du tăng khất sĩ qua nhiều xứ miền Sài Gòn, Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng…

Cuối năm 1974 dừng gót lữ phong trần dưới chân đèo Hải Vân lập cảnh chùa Huyền Không thơ mộng bên triền núi nhìn ra biển trời lộng gió trùng khơi gần Lăng Cô xanh thẳm. Năm 1978 vì sự đổi thay của thời cuộc, Huyền Không đành chấp nhận dời về Hương Trà, Huế, nhà thơ cùng với sư Pháp Tông và Huệ Tâm tạo dựng vườn thiền mới theo phong cách Nhật Bản ngoạn mục bên một con sông lau lách cạnh làng quê yên ả dặt dìu :

Chùa quê trăng ngủ mái rêu

Đất nghèo hoa nở sớm chiều tự do

Qua sông ta chẳng lụy đò

Hú dài một tiếng bỏ bờ rong chơi

Chơi rong một trận bồng bềnh trên sóng gió bể dâu cho đến năm 1989 hưởng ứng phong trào trồng cây xanh, Triều Tâm Ảnh lên núi cao vào tận rừng sâu heo hút Hòn Vượn, chọn một khu đất hoang sơ rộng rãi có triền đồi thung lũng hồ nước lập nên phong cảnh Huyền Không Sơn Thượng. Bằng con mắt thẩm mỹ, dưới bàn tay nghệ sĩ sắp đặt tài tình đã biến nơi hoang dã thiên nhiên thành cảnh trí diễm tuyệt đẹp lạ lùng chẳng khác chi cảnh thần tiên trong truyện cổ tích. Giữa khung cảnh núi rừng tịch mịch tĩnh lặng, thấp thoáng vài mái thảo am, ẩn hiện mấy nhịp cầu bắt qua hồ nước xanh ngần, phất phơ trúc biếc thảo hoa và có lẽ đó cũng là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời ấn tượng nhất ở nơi “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ. Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.” Hồn thơ hồn nhạc hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi mỹ lệ để thi sĩ tiêu dao ngày tháng từ thuở nọ cho đến bây giờ. Thơ và hơi thở cùng chan chứa giữa lòng núi trầm sâu tĩnh lặng :

Lắng nghe  hơi thở vào ra

Ngàn năm thân thế sương sa đầu cành

Lắng nghe hơi thở mong manh

Sợi thương sợi nhớ dệt thành mộng con

Lắng nghe hơi thở mỏi mòn

Trái tim nhịp đập mãi còn lang thang

Lắng nghe hơi thở dịu dàng

Câu thơ đại định non ngàn vắng không

Rỗng rang nhập cảnh giới tâm nguyên thiền định, thở bầu không khí khoáng đãng vùng thượng sơn, bồng tênh trên tinh thần hân hoan sáng tạo diệu thường, dường như tâm hồn thi nhân đã khai mở được mạch ngầm tâm linh sâu thẳm nên trào tuôn suối nhạc nguồn thơ tràn bờ chảy lai láng rạt rào. Kỳ lạ là niềm cảm hứng, sức sáng tạo dào dạt suốt bao nhiêu năm trường vẫn thường xuyên liên tục đều đều. Nếu như cuồng sĩ Bùi Giáng uống rượu lu bù, nhảy múa quay cuồng giữa ồn ào phố chợ cũng ra thơ tràn lan lấp lánh thì ẩn sĩ Triều Tâm Ảnh ngồi tịch nhiên bất động giữa thâm sơn cùng cốc vẫn trào dâng không ngớt thơ văn, thư pháp rồng bay phượng múa như thường :

Tháng ngày ăn móc uống sương

Lá đùa nắng nhẹ rễ vươn gió ngàn

Non sâu ẩn giả mơ màng

Gặp thời hợp tiết cao sang hiển màu

 

Nỗi buồn không phủi cũng rơi

Niềm vui thư thái cười tươi với mình

Nhìn xem hoa cỏ hữu tình

Mở ra vô tận trang kinh đời này

 

Bước ra thấy núi tọa thiền

Bước vô thấy Phật an nhiên mỉm cười

Trong ngoài chẳng thấy chữ lời

Mình còn ham viết bụi rơi cửa sài

Viết và viết miên man, sáng tạo và sáng tạo không ngừng nghỉ vì thi nhân đã chạm được mạch ngầm tâm tư cảm xúc vi diệu cùng niềm hạo nhiên chi khí làm bừng dậy cháy lên rực ngời ngọn lửa trong tim hồn rộn rã hòa âm thâm viễn uyên tư :

Từ ngày đem lửa lên non

Đốt kinh soi chữ lối mòn mù sương                                                  

Nhen tim ấm áp khu vườn

Đồi đông hạo khí tùng vươn ngọn tùng

Tùng xanh trúc biếc thông ngàn quyện vờn gió lộng không gian tịch mịch, lồng bóng hồ trăng thanh tịnh cùng hợp tấu ngân nga  quá nhiệm mầu vô lượng nghĩa thanh tân mới lạ, hòa chan diệu ảo bao nhạc khúc thiên nhiên :

Chuông sương tỉnh thức non triền

Kinh chiều cây cỏ an thiền đã lâu

Trăng khuya chữ trắng sơn đầu

Lời vô lượng nghĩa nhiệm mầu thắng hương

 

Cần cù đất đá hóa văn

Thông ngàn trỗi nhạc hồ trăng dập dờn

Cỏ hoa lát thảm mảnh hồn

Hương thơ thấm tận đầu non cõi huyền

Huyền Không Sơn Thượng đương nhiên là một chốn miền cố quận, là cõi giao cảm thâm tình chí cốt, là bằng hữu tri âm tri kỷ  đi về :

Tung đốm lửa vào lòng khe

Cháy bùng con nước đi về hạo nhiên

Lá xanh ngủ giữa thung triền

Sáng nay thức dậy một miền cố tri

Thi nhân lấy núi rừng hoang dã làm bạn tâm đầu ý hợp cố tri, vì thế ngày đêm nhàn nhã tha hồ trao gởi xiết bao nỗi niềm tâm sự, cứ mênh mang trút xuống tuôn trào nguồn mạch phong quang sáng tạo và kết tinh thành những tác phẩm tâm tình sinh động độc đáo vô lường.

Trước những tác phẩm đồ sộ, dày cộm dài mười mấy ngàn trang đủ thể loại biên khảo, truyện ngắn, truyện dài, thi ca như : Chèo vỡ sông trăng, Đá trắng chiêm bao, Lửa lạnh non thiêng, Chữ cháy bờ lau, Giun dế hư vô và hạt lửa xanh, Bụi trăng và lửa, Miền mây trắng, Tình mẹ mùa báo hiếu, Đóa hồng vàng của Phật, Kinh lời vàng, Sương khói Đường Thi ( thơ ) Ngàn xưa hương bối, Bức tranh thay đổi thế giới, Người trồng hoa và chàng tu sĩ, Một cuộc đời một vì sao, Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt, Chuyện của Thiền, Thanh gươm Ba la mật, Hành hương tâm linh, Thắp lửa tâm linh ( truyện ) Học Phật căn bản, Người cư sĩ ưu việt, Rèn luyện thơ văn, Phật học tinh yếu, Sử Phật giáo thế giới, Sử Phật giáo Ấn Độ và Trung quốc, 38 pháp hạnh phúc, Tiếng hú trên đỉnh cô phong ( biên khảo )  mang chở nội dung tư tưởng nhân văn và Phật học vô cùng phong phú giá trị, vì thế Viện nghiên cứu Phật giáo Nguyên Thủy Dallas-fort Worth ở Texas Hoa Kỳ đã trân trọng tuyên dương, cấp phát văn bằng danh dự Tiến sĩ Văn chương cho thi nhân vào năm 2011.

Trong các tác phẩm đó, ngoài hàng chục tập thơ, nổi bật lên là truyện dài 6 tập, dài hơn ba ngàn trang Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt, viết về cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. So với Ánh đạo vàng của Võ Đình Cường hay Đường xưa mây trắng của Nhất Hạnh thì Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt của Minh Đức Triều Tâm Ảnh dài nhất, tái hiện lại được toàn bộ sinh hoạt xã hội Ấn Độ từ thời Đức Phật ra đời đến xuất gia và thành đạo. Đây là một công trình vĩ đại, chứa đầy tâm huyết, phải có tấm lòng tha thiết say mê văn học Phật giáo mới thực hiện nổi.

Văn chương, nghệ thuật, thi ca phải chăng là tiếng hát của con người từ muôn thuở đến muôn nơi trên mặt đất ? Tiếng hát ấy đã bay dậy rung ngân qua cung bậc nhân sinh vừa ngậm ngùi trầm thống vừa hùng tráng thênh thang, hòa quyện nhau trong cõi lòng tâm can chan chứa giữa mộng đời vĩnh viễn thiên thu :

Mai hết cuộc tôi xin về núi cũ

Giã từ ngày áo đỏ đèn xanh

Chẳng phải tôi nhớ nguồn nhớ tổ

Mà bởi tôi chưa dung nổi thị thành

 

Tôi đã ra đi bằng bài thơ thứ nhất

Thuở đầu đời môi rượu lả đường say

Tôi đã ra đi tự khối tình chân thật

Yêu trần gian mà không dám cầm tay

 

Tôi chẳng biết nơi nao là quán trọ

Kiếp vốn tha hương cố quận bao giờ ?

Nếu còn thở tôi vẫn còn bày tỏ

Yêu cuộc đời với nguyên vẹn tình thơ

Từ tình thơ nguyên vẹn đó, từ những cảm hứng xuất thần nhập diệu, thi nhân bước xuống dòng sông tâm thức lung linh tĩnh lặng mà chèo vỡ sông trăng trên con thuyền hồn phiêu nhiên qua khắp mọi miền sông dài biển rộng, rong chơi thong thả và ung dung nhàn hạ. Đã tự bao giờ, người thi sĩ lên đường dấn mình vào cuộc khám phá cánh đồng vô tướng, khu rừng huyền mặc tâm linh. Chuyện ấy khác hẳn với chuyện chinh phục vũ trụ hay khai khẩn thiên nhiên, bởi vì cảnh giới đó không thể chỉ trỏ cầm nắm gì được cả mà chỉ thầm trực nhận, cảm nhận ra thôi, nên ghềnh và thác, suối và đèo ở đây là thác ghềnh của tâm cố chấp vào âm thanh, là đèo núi của tâm nô lệ dính mắc vào sắc tướng, cần phải vượt qua và vượt qua :

Qua sông bèn gọi con đò

Nôn nao lá rụng hai bờ sắc không

Qua sông giữa cuộc phiêu bồng

Mới hay trăm sự trăng lồng nước xuôi

Khi thấy được mọi sự ở đời như trăng lồng trong bóng nước chảy trôi thì bao nhiêu phiền não khổ đau trĩu nặng oằn vai trong cõi người ta bỗng chốc tan biến và tất nhiên nhà thơ liền thấy nhẹ nhõm cất bước tung tăng, chẳng còn chi nặng nề trầm trọng âu sầu. Sầu tư chi nữa, khi biết liền lập tức cái phù du ảo mộng của muôn sự việc ở đời một cách rốt ráo “vạn pháp giai không, duyên sinh như huyễn” rồi, nhất là cảm nhận được sâu xa thăm thẳm cái mặt mũi xưa nay  của chính mình từ lúc chưa sinh ra đời, thành thử tự nhiên mỉm cười tỉnh thức vững chãi thảnh thơi :

Hóa ra chỉ thở và cười

Là trăm niềm nỗi một đời xa bay

Hóa ra tỉnh thức phút giây

Là ta thấy rõ mặt mày chưa sinh

Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng hỏi Huệ Minh : “Không nghĩ thiện,  không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục của ông ?” Bất thần nghe hỏi như thế, Huệ Minh chợt hoát nhiên liền ngộ ngay đương xứ tức chân hiện tiền sờ sờ trước mắt. Thấy là thấy liền tức khắc, chẳng đợi mai mốt, tương lai hay vô lượng kiếp sau. Ồ cái mặt mũi thật, cái bản lai diện mục chân dung ấy ở ngay nơi chính mình, hãy nhận lấy đi thôi, đừng có vọng tưởng chạy tìm kiếm bên ngoài tận đâu đâu nữa. Xưa nay cũng nhiều cuộc lữ vạn lý du mù mịt rồi, thi nhân rong ruổi dặm ngàn viễn xứ, cứ trầm tư khắc khoải mải mê kiếm tìm trong vô vọng quắt quay… Bây giờ thì dường như đã thấp thoáng thấy hiện mặt mày ban sơ nên dừng gót phiêu bạt giang hồ, trở về với cái thân yêu :

Mải mê giữa chốn chợ chiều

Vai đau tóc lấm đã nhiều gian truân

Ta bèn rũ áo phủi chân

Dặm không đủng đỉnh chiếc thân nhẹ hều

Nhẹ hều nhẹ nhõm nhẹ thênh trên con đường mây trắng phong quang, thi nhân vẫn nhẹ nhàng như sương như khói thong dong giữa tuế nguyệt phiêu bồng. Lòng vô vi vô trú, ngao du suốt bốn mùa mưa nắng, lãng đãng qua lại chốn phù sinh. Đôi khi như con chim rừng hứng chí hót chơi dăm ba điệu vô thanh lảnh lót vu vơ :

Cửa sài hai cánh mở

Mây trắng bước vào ra

Phù sinh chừ rỗi việc

Rong chơi suốt bốn mùa

 

Con chim qua rừng tía

Buồn nghển cổ hót chơi

Ta có mặt giữa đời

Đổ thơ lên suối chảy

 

Cõi này cao thăm thẳm

Gậy này bước khơi vơi

Năm tháng ta rong chơi

Chỗ chẳng trời chẳng đất

Cuộc chơi ở đây chính là cuộc lữ thi ca hoằng viễn thênh thang biển rộng sông dài giữa vũ trụ mênh mông. Không có một thi nhân nào từ vạn cổ đến nay mà không lấy nhật nguyệt thiên địa, trăng nước gió mây làm chỗ giao du qua lại, bởi vì mặt trời mặt trăng, mặt đất trần gian ngút ngàn sông biển mây gió bao la kia là ẩn ngữ thi ca, hàm dung tất cả tinh túy mật ý mà người thi sĩ muốn bày tỏ với cõi tạm trần ai :

Như mây lãng đãng sông dài

Và như hoa nắng trên vai ửng màu

Và như tóc trắng trên đầu

Hạo nhiên gót lữ qua cầu nhân sinh

 

Chút lãng mạn của mây trời

Giữa hư không vẽ một đời phiêu du

Chút lãng mạn của mùa thu

Giữa chiêm bao vẽ sương mù lòng ta

 

Đầu năm nhặt cỏ vườn trăng

Câu thơ thiền đạo mầm măng nhú chồi

Xanh non màu mắt xuân vui

Bút tâm vừa chạm đất trời nhẹ rung

 

Xanh xanh chiếc lá nhân sinh

Hôm qua giọt nước hữu tình đến chơi

Vì thương sa mạc lòng đời

Hóa văn tình lọc chữ đời nguồn trong

Vì thương yêu vô điều kiện, không mục đích nên thi nhân vẫn trung thành với bước đi cô liêu độc hành ca qua khắp nẻo tồn lưu, nhìn ngắm mọi sự đời như nước chảy mây trôi, không dính mắc chẳng ràng buộc vào đâu hết cả. Buồn vui, sướng khổ… ừ thì biết là sướng khổ, buồn vui… thế thôi. Đôi khi cũng chạnh lòng, trằn trọc thao thức khi nghe tiếng chuông chùa Hàn San của Trương Kế, từ mấy nghìn năm trước vọng về văng vẳng ngân nga. Tuy sống với núi với đá mà hồn chưa thành đá thành núi, vẫn còn lẩn thẩn với dòng sông với trăng nước cánh buồm xa vì trái tim vẫn còn đập nhịp tình đời. Tình đời lý đạo giao thoa ở đây trong một niềm tri kỷ tri âm thâm thiết không nói nên lời :

Sống với núi mà hồn chưa hóa núi

Nên đôi khi lẩn thẩn một dòng sông

Lẩn thẩn cánh chim màu hoàng hôn ướt sẫm

Cùng cánh bèo xao xuyến nỗi sầu đông

 

Tiếng ai hát mà bờ xa sóng vỗ

Đẩy con đò trôi hút cõi cô liêu

Rừng không ngủ và ngàn sao không ngủ

Tưởng lắng nghe chuông vọng bến Phong Kiều

 

Sống như đá mà tình chưa hóa đá

Lẩn thẩn trăng và lẩn thẩn cánh buồm khơi

Đốm lửa chài nhấp nhô miền hư ảo

Tưởng cùng ta nhấp nháy trái tim người

 

Nên nỗi buồn cũng chàm rêu thành quách

Dòng sông đêm con nước chảy mơ hồ

Dăm tri kỷ tơ đàn xưa buốt lạnh

Thoảng mộng trường dăm bảy hạt sương khô

Giữa nhân sinh trường mộng, mỗi người trong chúng ta có lẽ ít nhiều đều chạm mặt với nỗi buồn cô đơn khốc liệt, riêng với những tâm hồn thi nhân thượng đẳng hoằng đại, họ sẵn sàng đón nhận sự cô đơn như đón nhận một tri âm, tâm đắc ăn nằm với cô đơn một cách thân mật, đậm đà, họ thích tự do tự tại bước thênh thang những phương trời cao rộng để sáng tác sáng tạo. Chính sự cô đơn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô biên. Sứ mệnh của kẻ cô đơn là viết và viết lên những tác phẩm siêu đẳng, viết văn siêu đẳng, làm thơ siêu đẳng, vẽ tranh siêu đẳng vì cuộc đời siêu đẳng thượng thặng, tuyệt vời như cảnh giới huyền ảo sương khói trăng sao :

Cô liêu đứng giữa sa mù

Nửa lòng lạnh trắng nửa thu nhạt mờ

Cô liêu đá cô liêu thơ

Và cô liêu nữa chơ vơ bốn bề

Bốn bề tám hướng mười phương đều phả một màu cô đơn trầm hậu. Nỗi cô đơn, niềm cô độc không phải là xa lánh cuộc đời mà trái lại, để cho thi nhân có dịp trầm tư, cúi xuống lắng nghe giữa lòng đời một cách thành tâm sâu sắc hơn. Cô đơn và sáng tạo thường đi đôi sánh bước với nhau để cùng khơi mở suối nguồn uyên nguyên trong tâm thức, nhà thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh biết rất rõ điều đó nên đã chọn cho mình một thái độ ẩn dật giữa núi non :

Con chim ẩn sĩ qua vườn

Làm rơi chiếc bóng bên sườn nước trong

Ai kia đứng lặng giữa dòng

Mà nghe nửa có nửa không bàng hoàng

 

Núi cao chẳng đứng hai mình

Không trung chẳng thể trăm tình ở chung

Bao năm khói bụi đi cùng

Cô đơn chiếc bóng hành tung khó tìm

Cô đơn rờn lạnh quạnh vắng hoang liêu, người thi sĩ thì thầm khuya sớm chuyện chi mà trăng tỏ rạng ngời nỗi lòng thiết tha như thế, để cho thỉnh thoảng xuống núi chơi rong, có bài thơ sương khói làm quà tặng cho dâu bể vô thường, lòng bồi hồi gió cát và mỉm nụ cười với tứ xứ mười phương hoa cỏ khơi vơi :

Thơ về phố chợ rong chơi

Đề câu quán khách dặm lời khói sương

Có khi chữ lấm tro hường

Có khi bụi trắng cúng dường bể dâu

 

Dẫu như mây hiện giữa trời

Chút tình trăng nước tạc lời làm vui

Mười phương gió cát bồi hồi

Mười phương hoa cỏ nụ cười mênh mông

Có lẽ đó là nụ cười như Ma Ha Ca Diếp trong tích niêm hoa vi tiếu thuở nào trên tuyệt đỉnh Linh Sơn rờn mây trắng hay nụ cười vô sự của thiền sư xuống núi hoặc nụ cười vô vi của thi sĩ phiêu bồng những phương trời thi ca bát ngát mông mênh :

Đạo tình nửa nhớ nửa quên

Chừ ta ở lại giữa miền bụi bay

Thơ còn mây trắng phương tây

Thì lòng thi sĩ tháng ngày còn xanh

Trên dặm trường sương gió ra đi, thi nhân ngây ngất sững sờ giữa quên và nhớ cũng như giữa có và không, giữa mộng và thực, giữa sống và chết, giữa mê và ngộ… Hai trạng thái chỉ cách nhau kẽ tóc đường tơ nhưng thực ra chẳng khác nhau gì cả mà hòa nhập tương dung tương tức, bất nhị tự thuở nào rồi :

Đạo đời một mối khôn phân

Tình thiên thu nọ mà gần mà xa

Dòng lên dòng xuống cũng là

Đầu nguồn cuối biển sương pha mấy màu

Mấy màu sương pha hỡi dòng đời suối đạo ? Thôi chớ bận tâm, đừng có mơ màng mộng mị chi thêm nữa mà hãy bất động rỗng rang với lòng như thị như nhiên. Tuyệt diệu làm sao ! Bước đi không chỗ trú của đạo và thơ giữa ta bà huyễn mộng phù du :

Ngàn xưa Đạo xuống thảo lư

Trăng vàng ghé đọc tương tư mấy mùa

Ngàn sau Thơ xuống hiên chùa

Chỉ nghe lá rụng gió lùa lạnh hiu

Dìu dặt thần hồn giữa trăm miền quyến rũ đầy âm thanh và màu sắc mà nhà thơ chẳng mắc dính buộc ràng trói cột vào bất cứ gì vì đã giã từ, buông xả sạch trơn hết rồi. Đến nỗi bỏ luôn phồn hoa đô hội, trút hết mộng mị thị thành để đơn thân độc mã, một mình một bóng lặng lẽ âm thầm lên tận chốn non cao giữa rừng sâu rú thẳm, cắt cỏ lợp tranh trồng hoa vàng gầy trúc biếc, dựng lên cảnh thần tiên Huyền Không Sơn Thượng. Một cảnh giới thuần túy thiên nhiên, phưỡng phất ngợp đầy chất thiền vị thi ca giữa trời thơ đất mộng, bồng tênh lênh láng lãng đãng sương mù và mây trắng chập chùng bay lượn suốt sớm trưa chiều tối phiêu diêu. Tiêu dao tiêu sái, nhàn nhã thưởng ngoạn trăng ngàn bàng bạc ngân nga hòa quyện suốt đêm ngày :

Gánh mộng lên non thả gió bay

Đem thơ vào núi gởi cho mây

Thân ta sương khói phiêu bồng cõi

Biết dính vào đâu giữa chốn này ?

Giữa chốn trần gian đầy hỗn độn, lộn nhào đảo hoán mọi giá trị tinh thần, nhất là giá trị đạo đức đều sụp đổ tan hoang, kể cả tôn giáo cũng đeo mặt nạ giả dối vì những thủ đoạn của thế lực vô minh xen vào âm mưu phá hoại một cách tinh vi quỷ quyệt. Biết rõ tận tường chuyện đời điên đảo xảo trá mưu mô đó, cho nên thi nhân vất bỏ ngoài tai những chuyện thị phi, xem thường mọi sự như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu… Thấy mọi hiện tượng, màu sắc, âm thanh, danh lợi đều huyễn hoặc vô thường như sương bóng phù du, nên lặng lẽ từ tạ giã biệt bỏ đi, có chi đâu mà  vướng bận dính mắc, chẳng có gì phải đuổi bắt hy vọng mong cầu :

Tạ từ xuôi ngược bể dâu

Tạ từ danh tướng sắc màu thế gian

Non sâu đã lặng tiếng đàn

Đêm đêm nguyệt trúc gió ngàn vô thanh

 

Hai bờ trang giấy vô hư

Chữ bơi ở giữa tưởng tư cuộn dòng

Ta bèn giọt mục sang sông

Đỡ phiền bát nhã đỡ công sắm đò

Bỏ lên non cao, tìm vào rừng sâu rú thẳm với phong độ  khinh an, thoát vượt mọi tham si, thi nhân nhẹ nhàng lắng nghe cung đàn vô thanh vi vu vi vút vọng về. Để rồi, mỗi sớm tinh sương óng ả hay những buổi chiều tà hoang lương cô tịch, bình yên thả bước dạo vòng quanh qua nhịp cầu Lãm Thương dịu ngát hương sen rồi rong rêu qua hồ Thủy Nguyệt xanh ngần bóng núi trầm hùng, nhẹ mỉm cười với mấy vần thơ đung đưa thư pháp bên hiên Am Mây Tía hay thỉnh thoảng, đôi khi cùng tâm sự với hoa vàng trúc biếc lung linh huyền ảo dưới ánh trăng ngà long lanh lấp lánh :

Qua vườn thăm thảm cỏ xanh

Thăm câu lục bát thăm cành liễu trơ

Có khi trăng động mặt hồ

Bóng hồn lẫn với bóng thơ bồng bềnh

 

Bốn mùa xanh biếc trúc ơi !

Ruột không tiết thẳng đứng trời hạo nhiên

Quanh năm nhả khí cao hiền

Còn tung xác lá án thiền tặng ta

 

Ta yêu trời đất sương mờ

Và yêu mây trắng ngu ngơ non tùng

Bao năm gót lữ đã từng

Dặm người dặm bụi xin đừng hóa dâu

Sâu thẳm tình yêu lồng lộng không tên, bềnh bồng thanh khí, thở cùng hồn đất hồn trời, hồn sông núi thiên nhiên, Huyền Không Sơn Thượng gợi nhớ đến cảnh giới tuyệt vời Lô Sơn mà Tuệ Sỹ giới thiệu trong Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng : “Lô Sơn hùng vĩ phiêu bồng nhưng u ẩn. Lòng núi giấu kín những tâm sự nghìn năm không nói, lòng núi ủ kín những cuộc đời trầm mặc, những thân thể khô gầy như hạc như trúc, những tâm hồn nguội lạnh như tro tàn mùa đông. Núi âm thầm cho gió ngàn gào thét cho mây trời vần vũ và những dòng thác từ trên tuyệt đỉnh cao mù đổ ào xuống. Lô Sơn đồng vọng một cõi thi ca bát ngát. Cõi thi ca trùng trùng điệp điệp những ẩn ngữ kỳ diệu.”* Ẩn ngữ ấy được thi nhân nhận biết là hơi thở trong vô biên và là nụ cười trong thực tại bây giờ :

Chừ vô biên chỉ còn là hơi thở

Và nụ cười bất diệt khắp quanh đây

Đời đạo sĩ con còng già bỏ tổ

Hóa thân làm lau cỏ ngát đồi tây

Hóa thân làm cỏ lau xào xạc ven sông, làm hồn hoa cỏ may lay động bóng chiều tà óng ả, làm giọt sương mai óng ánh, làm đá tảng triền đồi hát vang những lời vu vơ thơ nhạc ban sơ phơi phới :

Có khi tâm đá thốt lời

Có khi hồn cỏ dạo chơi thung triền

Cũng là thơ cũng là thiền

Sương treo công án một miền lá xanh

Xanh ngát ngàn thông vi vu vi vút giữa truông đồi mây gió hoang vu, không còn phân biệt đâu là ngày đâu là đêm, đâu là thực đâu là mộng, đâu là đến đâu là đi… Chỉ biết rằng chút thân bèo bọt này đã trải qua vô lượng kiếp trùng trùng sinh diệt giữa biển trầm luân nghiệp báo lưu linh rồi :

Hôm qua mộng thấy tụng kinh

Tỉnh ra mới biết chính mình là trăng

Bao nhiêu cát của sông Hằng

Là bấy nhiêu kiếp đã từng tử sinh

Thấy sinh tử như những bọt sóng nhấp nhô nổi trên mặt biển hiện tượng có sinh có diệt đồng thời cũng nhận biết bản thể của sóng là nước, vốn không sinh không diệt thì lòng trạm nhiên rỗng lặng, chẳng còn sợ hãi gì nữa. Mưa nắng phiêu nhiên, tuế nguyệt phiêu bồng mở ra bát ngát cõi thi ca lồng lộng để hồn thơ phiêu diêu sương khói vô vi, quên ta quên người, quên thân quên thế, quên mộng quên thực, quên hết xưa sau… Chỉ còn lại hương vị cô liêu dìu dặt tình yêu thương không đối tượng mà chứa chan bao cảm mộ giao hòa với thực tại bây giờ và ở đây :

Bài thơ viết giữa khói mây

Ngẩn ngơ sương trắng lay bay rừng chiều

Chim trời rớt hạt cô liêu

Mới hay câu chữ nghiêng xiêu bóng mình

 

Qua cầu bỏ bóng quên mình

Bóng bao nhiêu ảnh mê tình bấy nhiêu

Cỏ xanh liễu biếc yêu kiều

Thế thân sương khói phiêu diêu mấy bờ

Mấy bờ lau lách xanh reo cười nói điều chi như thế, để trên ngõ về cố quận, nếu ngày xưa nhà thơ Phạm Thiên Thư có lần mơ ước một ngày nào đó sẽ lên núi rừng cao thẳm lập am mây bên động hoa vàng để tự do ca hát say sưa cho thoải mái, thỏa nguyện, thỏa chí bình sinh :

Mai sau trời đất thái bình

Về lưng núi phượng một mình túy ca

Gây giàn thiên lý vàng hoa

Lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây**

Thì hôm nay, nhà thơ Triều Tâm Ảnh đã thực hiện được ước mơ đó một cách ngoạn mục như ý rồi. Ơi chao ! Suốt bình sinh một đời người, thi sĩ buông xuống xả ly hết mọi sự để thể nghiệm niềm tự do vô ngại ngay nơi bản thân và đã cảm ngộ vô ngần niềm tự do đó giữa nhật nguyệt thiên địa, mưa nắng gió trăng, cỏ hoa mây nước, sương ngàn núi biếc quyện hòa trên cung bậc Nhất Như :

Lối nhỏ qua cầu bóng thảo lư

Vườn thơ vườn cỏ dáng khiêm từ

Mấy mùa lặng lẽ màu thanh thủy

Bao độ u nhàn nghĩa cổ thư

Trăng ghé hồ trăng không lại có

Gió xao cành gió thiệt rồi hư

Hốt nhiên tâm ý đàm hương quyện

Soi tỏ trời chiều một chữ Như

Chữ Như của thi sĩ Triều Tâm Ảnh khiến cho chúng ta sực nhớ lại chữ Như của thiền sư Phước Hậu :

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư

Học hành không thiếu cũng không dư

Đến nay nghĩ lại đà quên hết

Chỉ giữ trong lòng một chữ Như

Như Lai, Như Như hay Chân Như, Phật Tánh đều giống nhau, chỉ cái bản thể Diệu Tâm thâm thúy của vũ trụ nhân sinh vốn có sẵn, luôn luôn hiện hữu ngay trước mắt mình đây thôi như trong kinh Đại Bát Niết Bàn đã nói : “Tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, Phật Tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh.” Khi mình thấy muôn loài vạn vật đều sống trong Phật Tánh thì tức là thấy tánh và tướng của sanh tử là Niết bàn đều an lạc, vô ngại tự tại tự do.

Có một hành giả hỏi thiền sư Cảm Thành : “Thế nào là Phật ?” Sư đáp : “Khắp tất cả chỗ.” Lại hỏi tiếp : “Thế nào là tâm Phật ?” Lại đáp : “Chẳng từng che giấu.” Như thế, chẳng từng che giấukhắp tất cả chỗ là sự bình đẳng tuyệt đối của Phật Tánh. Đây là sự bình đẳng rốt ráo, bất nhị của Niết bàn và sanh tử, của Phật Thích Ca và chúng sinh.

Tánh Phật bất khả tư nghì cũng giống như Tánh Không mông mênh chẳng ngằn mé kia, cho nên không có bất cứ một chúng sinh nào có thể sống ngoài Tánh Không được cả. Tánh Không vô ngại rỗng rang vốn tự do tự tại, giải thoát triệt để ngay từng giây phút  như thị như nhiên, như vầy như thế, như thơ như nhạc, như có như không, như mộng như huyễn, như rứa như ri ngay đang là đó tức thì :

Ta và mặt nhật cùng đi

Chẻ câu thơ thấy man di kiếp người

Trăm năm một hơi thở thôi

Ta cùng chữ thức giữa trời tự do

 

Tay buông tay bắt phí công

Thế tình tan tụ có không lẽ thường

Ai người còn bỏ còn vương

Ngắm nhìn như thị bụi hường ở đâu

Bụi hồng khói đỏ, cỏ vàng lá xanh hay niết bàn sinh tử, thiên đường địa ngục…đều tùy duyên biểu hiện chập chùng như hoa đốm giữa hư không mà thôi. Vậy thì, chúng ta hãy sống trọn vẹn, hít thở bầu tự tánh Chân Không, Tánh Không rỗng lặng, tuyệt nhiên chẳng nên hoài công phí sức tiêu diệt hoa đốm làm chi nữa :

Sợi tóc chẻ vô công

Chẳng thể thấy Chân Không

Tìm đốm hoa mà diệt

Có sạch được trần hồng ?

Hỏi tức là trả lời rồi. Vì thế, cuộc đời người thi sĩ xuất chúng kia tự nhiên thanh thoát, sáng ngời như một bài thơ bất tuyệt giữa đỉnh cao và hố thẳm tâm linh đã về đã tới :

Bài kinh đi suốt cuộc đời

Đêm nghe gió nổi tiếng lời sạch không

Chừ đây một cõi phiêu bồng

Chỉ còn ta đứng mênh mông bóng mình

Muôn xưa bóng bọt đăng trình

Muôn sau bóng bọt tấp ghềnh chiêm bao

Chiêm bao huyễn mộng cũng là thực tại, một thực tại hiện tiền ngay trước mắt. Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy cái pháp thực tại ấy trong kinh Pháp Bảo : “Pháp đã được khai thị bởi đức Thế Tôn là thực tại hiện tiền, phi thời gian. Hãy quay đầu là thấy ngay trên đương xứ mà mỗi người trí tuệ đều có thể tự mình chứng nghiệm.” Hay như Lục Tổ Huệ Năng : “Trong sát na không có tướng sanh, không có tướng diệt mà cũng chẳng có sự sanh diệt nào phải diệt đi cả. Đó là cái thực tại hiện tiền tuyệt đối, không hạn cuộc bởi một ranh giới nào, nên lúc nào cũng tự tại an vui.”

Như vậy, nói theo sư Viên Minh, người bạn thâm tình  chí cốt, huynh đệ với Triều Tâm Ảnh : “Pháp của Phật phải hội đủ những tánh chất : Thực tại hiện tiền, hồi đầu mà thấy, thấy ngay lập tức không qua thời gian, phải ứng xử ngay trên thực tại thì mỗi người sẽ tự thấy ngay…Thiền tông nói rằng : “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.” Trực chỉ không thể ngày mai, ngày kia phải thế không ? Thẳng vào tâm mình cũng có nghĩa là trở về ngay nơi thực tại hiện tiền này, đừng đợi thời gian, hãy trở lại mà thấy cái ngay tại đây và bây giờ. Đó cũng chính là kiến tánh… Khi đang sân, ngay lúc đó chỉ có cái sân là thực, chúng ta cần trọn vẹn thấy rõ cái sân đó với toàn bộ tính chất của nó. Ấy mới là kiến tánh, mới là cước căn điểm địa. Nó chính là định là tuệ, chẳng có cái định, tuệ nào tối thượng hơn.”***

Có lẽ thường xuyên sống trong thực tại mới mẻ đang là như thị đó, cho nên thi nhân vẫn im lặng sáng tỏ, buông bỏ xuống hết trăm công nghìn việc, vắng vẻ mọi nỗi ưu phiền :

Trần gian trăm việc tạm yên

Thơ đề góc núi đầy hiên nắng vàng

Gió trăng thế sự không bàn

Giấc thiền lặng lẽ nhẹ nhàng tình không

Rỗng rang nhàn nhã, bao nhiêu nhiêu khê tế toái chuyện thế gian chẳng còn bận tâm luận bàn chi thêm nữa cho mệt, chỉ còn biết hứng thú làm thơ, thường xuyên viết thư pháp, đàm đạo uống trà cùng hư vô hố thẳm và lắng nghe trăng khuya đọc thơ chơi giữa ngàn sao chiếu diệu vời :

Trăng khuya tìm đọc thơ rơi

Núi rừng đã ngủ đất trời còn ta

Mời hư vô cạn chung trà

Giọt sương thinh lặng la đà hiên văn

 

Trăng ngồi góc núi làm thơ

Mây qua đỉnh biếc viết tờ kinh không

Thương ai tất tả dặm hồng

Lên đây lượm chút phiêu bồng về chơi

 

Còn hoa thì bướm tìm về

Còn kinh còn chữ tỉnh mê còn bàn

Còn lý sự còn lan man

Ra sông úp chiếc đò ngang khỏe liền

Tuyệt diệu là khỏe liền như thế đó mà có mấy ai thực hiện được gì đâu ? Thôi thì, một khi thi nhân lãnh hội được điều ấy rồi thì cứ việc thong dong thoải mái đến đi, tùy thuận tùy duyên mà chuyển hóa những tâm hồn đồng điệu bằng phương tiện nghệ thuật thi ca thiền học. Thiền và thơ như đôi cánh phụng hoàng tung bay chín tầng trời cao ngất như  thi nhân nhận định : “Thơ bay vi vút trong không gian thẩm mỹ ước lệ, Thiền bay thênh thang trong cõi tịch mặc, trong sáng và vô duy. Thơ là tinh hoa của ngôn ngữ, làm cho con chữ lấp lánh nhiều sắc màu, ý tưởng, lung linh đa chiều tư duy và cảm xúc, Thiền là tinh hoa của minh triết Đông phương, là đóa trăng soi giữa miền u tĩnh, đánh thức vô minh, vọng lầm để tao ngộ với quê hương sơ thủy. Thơ là sự suy tưởng của triết lý thất bại, là giấc mơ tại thế, là cánh chim ước vọng bay vào giấc mơ riêng tư, cô đơn nhưng lại xa rộng khôn cùng, nó còn muốn nhảy vào cả hố thẳm vô thức câm nín nữa, Thiền là miền đất bên kia, thuộc lãnh địa của tâm năng trực giác, là chỗ mà lý trí tuyệt lộ, là ngôn ngữ vô ngôn của cố quận thuở ý tưởng và khái niệm chưa sinh ra đời… Cả thơ và thiền đều như trăng, chẳng soi chiếu cho riêng ai mà làm sáng cho tất cả. Trăng còn để dành cho khách lãng tử và bạn tri âm, đôi khi nó đối ẩm với chính mình, cỏ hoa và trời đất nữa.”

Thật vậy, trăng gió nước mây, hoa vàng trúc biếc, giun dế chim muông… là ẩn ngữ của thiền và thơ như Thiền Lão đại sư có lần tuyên bố :

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác

Trăng trong mây trắng hiện toàn chân

Chân Tâm, chân lý như thị như nhiên, hiện tiền ngay trong từng sự vật bé nhỏ, ngay trong mỗi lá cỏ đóa hoa dại ven đường như thi sĩ Quách Thoại có lần đã sực thấy thẳm sâu :

Đứng yên bên hàng giậu

Em mỉm nụ nhiệm mầu

Lặng nhìn em kinh ngạc

Vừa thoáng nghe em hát

Lời ca em thiên thâu

Ta sụp lạy cúi đầu

Còn nhà thơ Triều Tâm Ảnh thì thấy nghe vi diệu tuyệt vời ngay trong các loài động vật nhỏ bé như giun dế, chim chóc líu lo ríu rít huyền hòa :

Chim và giun dế du ca

Hát lên nào hỏi quê nhà là đâu

Lang thang trăm quán nghìn cầu

Trái tim nốt nhạc bên nhau chẳng rời

Dĩ nhiên đó là những ẩn ngữ của thi ca và thiền. Tiếng thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh là tiếng lòng rung động khôn dò của một đạo nhân hay một thi sĩ  đã dấn mình đi sâu vào hố thẳm và đỉnh cao của cuộc đời, lang thang trong thế giới phiêu lãng của ngôn từ, đốt cháy lên từng con chữ, từng khái niệm hữu vi vô vi làm bừng sáng tư tưởng thượng thừa vượt thoát nhị nguyên, huyễn ảo chiêm bao :

Dấu chân trên cỏ hôm nào

Vẫn còn sương ướt lời chào cố tri

Kẻ hữu vi người vô vi

Mênh mang mây nước cuộc đi cuộc về

 

Có thiền ẩn tận hang sâu

Có thiền vào chợ dăm câu ba vần

Hỡi ai phiêu lãng đường trần

Quay nhìn chiếc bóng chợt gần chợt xa

 

Câu thơ đốt lửa ra đi

Đất trời khát vọng trí tri cuộc bồng

Phiêu nhiên cháy một đốm hồng

Soi vài vệt tối chút không tìm về

 

Tay cầm một đóa đông phương

Niềm vui hoa nở con đường hữu duyên

Nước mây chan chứa đạo thiền

Yêu thương khổ đế não phiền trăng soi

Trần ai còn khổ đế, ta bà còn khổ lụy là thi nhân vẫn còn tiếp tục làm thơ và hành thiền. Tiếng thơ ấy đang cưu mang một tính mệnh quê hương Việt Nam lớn lao như lời nhận xét tinh tế của thi sĩ Phạm Công Thiện : “Đọc đi đọc lại mấy lần, mấy chục bài thơ của Triều Tâm Ảnh, tôi có linh cảm rằng thi sĩ đang cưu mang một Tính Mệnh lớn lao mà có ít thi sĩ Việt Nam nào hiện nay có thể đủ trầm lặng đạo lực cưu mang nổi. Không phải vì những tên tuổi bi tráng như Nietzsche hay Rimbaud mà tác giả yêu thích đã khiến tôi nhận xét như trên mà vì chính những gì loáng thoáng đàng sau những dòng thơ kỳ diệu của thi sĩ.

Thi nhân ở đây đồng thời cũng là một đạo nhân. Thi nhân đang đứng giữa trung tâm điểm cơn bão tố địa cầu, đứng giữa Triêu dương của Đông phương và Tịch dương của Tây phương, đứng giữa Tây nhập và Đông khởi của Hoa Nghiêm Kinh… Như những đám mây trôi nổi ở vùng mặt trời lặn, tôi xin gởi đôi dòng linh cảm này về thi sĩ và tạ ơn được đọc những bài thơ sâu sắc tuyệt đẹp, ít thấy trong thi ca Việt Nam hiện đại.”

Cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh hay cõi thơ thanh thoát an nhiên đó đã khơi mở biết bao cảm hứng cho những nghệ sĩ thi nhân, nhất là cảnh giới kỳ tuyệt Huyền Không Sơn Thượng kia, như có một thần lực vô hình chiêu cảm những bước chân du tử lãng tử, những hành nhân thi sĩ đi về hân hoan nôn nao hồn reo vui rộn rã :

Huyền Không Sơn Thượng rất xa

Đã qua làng xóm còn qua núi đồi

Ở đây vườn cảnh xanh tươi

Lan rừng nở rộ chim trời hót vang

 

Đã trở về mái nhà xưa

Thì trăng thì gió bốn mùa thênh thang

Lắng nghe chim tấu khúc ngàn

Lắng nghe hơi thở dịu dàng cỏ thơm

 

Đợi làn mây tía qua hiên

Chung trà hương sói kết duyên bạn bầu

Khói sương ý hợp tâm đầu

Lá hoa cười nói chữ câu xóa liền

Huyền Không Sơn Thượng ơi ! Lang thang sĩ này cũng từng về nơi chốn ấy nhiều lần rồi, thường lặng lẽ một mình lên nằm mắc võng đong đưa giữa hai đầu nhật nguyệt một vài hôm để lắng nghe tiếng thơ tịch mịch vang dội rền mênh mang khắp đất trời. Có bận đi với thi sĩ Trần Đới, Phạm Thư Cưu, Hải Tuệ, Kiều Trung Phương, vài lần cùng  với Nguyễn Văn Nho chọn một đêm rằm lên ngắm trăng Huyền Không Sơn Thượng. Sương khuya lãng đãng hòa quyện trăng ngàn xanh biếc lùa vào thảo am ngan ngát hương trầm, chỉ còn nghe gió thiên thu đồng vọng trong giọng ngâm thơ của Nguyễn Văn Nho truyền cảm làm xao động mấy cành trúc la đà phất phơ quanh bờ suối hoa vàng và tôi cũng trầm hùng đọc một bài thơ mới vừa cảm tác giữa cùng cốc thâm sơn :

Đường lên đó thoảng lời chim lảnh lót

Dọc ven sông hoa nắng trổ thơm lồng

Dòng Hương khuất sau cánh rừng cây lá

Qua dốc đồi thoáng hiện bóng Huyền Không

 

Không mà có khi lòng buông bỏ hết

Thì thong dong là cái được của Huyền

Kinh lời vàng vọng ngàn xưa hương bối

Chợt bừng ra vi diệu nghĩa uyên nguyên

 

Miền sương trắng lặng hồn sâu trầm tịch

Tình non thiêng hiển lộ cái vĩnh hằng

Cầm rất khẽ làn hương khuya mới mẻ

Nghe ngoài kia ai chèo vỡ sông trăng

 

Về ngõ hạnh hành hương tâm linh nọ

Gió muôn trùng không dấu vết thơ bay

đá trắng chiêm bao thành thực tại

Cõi thi ca bát ngát giữa phương này

 

Tâm Nhiên

 

* Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng. Ca Dao xuất bản, Sài Gòn 1973

** Phạm Thiên Thư. Động hoa vàng. Tiếng Thơ xuất bản, Sài Gòn 1971

*** Viên Minh. Thực tại hiện tiền. Tôn Giáo xuất bản 2005

Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh ( chữ nghiêng ) trích trong các tác phẩm :

Chèo vỡ sông trăng. Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế xuất bản 1993

Chữ cháy bờ lau. Thuận Hóa xuất bản  2004

Giun dế hư vô và hạt lửa xanh. Văn Học xuất bản  2008

Bụi trăng và lửa. Văn Học xuất bản  2011

 

http://hoangphap.info/Page.aspx?ArticleID=5133&SubID=2&ID=7

Các tin đã đăng:
Về đầu trang