Hòa thượng Thích Quảng Đức tên thật là Lâm Văn Tức sinh năm 1897 tại
làng Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh , Tỉnh Khánh Hòa. Ngài đi tu từ khi lên
7, sống cuộc đời giản dị, thanh đạm của một tu sĩ theo hạnh đầu đà. Năm
1943 ngài rời Khánh Hòa vào Nam, ròng rã 20 năm, đi khắp các vùng
SàiGòn, Gia Định, Hà Tiên, Cao Miên… hoằng dương chánh pháp. Ngài đã có
công xây dựng và trùng tu nhiều ngôi chùa từ miền Trung đến miền
Nam.Trong cuộc đời ngài đã xây dựng và trùng tu 31 ngôi chùa: 14 chùa ở
miền Trung và 17 chùa ở miền Nam. (1) Ngài được Giáo hội Tăng
già Nam Việt mời làm Trưởng ban Nghi lễ và Hội Phật học Nam Việt mời làm
trụ trì chùa Phước Hoà (Bàn Cờ). Nhưng ngôi chùa ngài thường trú lâu
nhất là chùa Long Vĩnh (Phú Nhuận) nên Phật tử các nơi cũng gọi ngài là
Hòa Thượng Long Vĩnh. Ngôi chùa cuối cùng ngài dừng chân là chùa Quán
Thế Âm (Gia Định) trước khi ngài thực hiện hạnh Vị Pháp Thiêu Thân, một
khổ hạnh bố thí ba la mật của vị Bồ Tát. Đọc tiểu sử của
ngài tôi có thể quên đi nhiều chi tiết, nhưng vẫn còn đọng lại trong trí
tôi những gì gần gũi và gắn bó với thời thơ ấu của tôi: Ngài đã từng
trụ trì chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ (ở gần nhà tôi, đã từng là trụ sở Hội
Phật Học Nam Việt, nay đã trở thành chùa ni), đã từng tham gia trong Hội
Phật Học Nam Việt, đã từng viết những câu di cảo để lại đời sau khiến
trái tim thơ dại thời bấy giờ của chúng tôi buồn đứt ruột : “Đệ tử hôm nay nguyện đốt mình Làm đèn soi sáng nẻo vô minh …” (Trích bài Kính dâng chư Phật mười phương của Hoà thượng Thích Quảng Đức (1897-1963)
Ngài đã thắp lên ngọn đuốc soi đường giữa đêm dài tăm tối của vô minh
hận thù, thiên kiến đang bao trùm lên đất nước ta, ngọn đuốc làm bừng
tỉnh lương tri của nhân loại, cả thế giới đang hướng về đất nước Việt
Nam đau khổ, cả chính quyền Ngô Đình Diệm cũng rúng động - sự rúng động
sâu xa này còn kéo dài đến tận 36 năm sau trong tâm thức ray rứt hối hận
của một người đàn bà lộng lẫy, đầy uy quyền lúc đó, bà “cố vấn” Trần
Thị Lệ Xuân trong một lời tuyên bố, tôi tình cờ đọc được trên báo Úùc
đầu năm 1999 “ … sau 36 năm khép mình trong nếp sống tu viện ở La Mã,
nay tôi có rất nhiều điều muốn nói, nhưng điều đầu tiên tôi muốn nói là :
tôi xin thành tâm sám hối trước linh hồn Hòa Thượng Thích Quảng Đức về
những lời tuyên bố vô ý thức… của tôi năm 1963”… Khi đó, cuộc
đấu tranh của Phật giáo đang sôi sục, sự hy sinh của Ngài càng thêm yếu
tố quyết định đưa đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm những
tháng sau đó. Đối với người con Phật hành động của ngài thật lẫm liệt,
phi thường … hành động của đức vô uý, Đấu chiến thắng Phật.
Trong cuộc đấu tranh của Phật giáo chống chính sách kỳ thị tôn giáo, gia
đình trị của chế độ Ngô Đình Diệm vào mùa Phật đản năm 1963, Hòa Thượng
Thích Quảng Đức về ngụ tại chùa Ấn Quang để tiện bề tham gia tranh đấu.
Ngày 27/5/1963 ngài viết thỉnh nguyện thư gởi Tổng Trị sự Giáo hội Tăng
già Việt Nam xin tự đốt mình để bảo vệ chánh pháp. Mặc dù không được
giáo hội chấp thuận nhưng ngài vẫn quyết tâm thực hiện ý nguyện.
Lúc đó, chính quyền Ngô Đình Diệm trước áp lực của Quốc tế và phong
trào đấu tranh Phật Giáo đã phải ký vào bản tuyên ngôn ngày 10/5/1963
giải quyết các nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo. Nhưng trên thực tế,
đến ngày 9/6/1963, sau nhiều lần thảo luận giữa Uỷ Ban Liên phái Bảo Vệ
Phật giáo và Uỷ Ban Liên bộ của chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn không đem
lại một kết quả nào !!! Hành động đàn áp và khủng bố vẫn tiếp tục gia
tăng. Cho nên, nhân cuộc diễu hành của gần 1000 tăng ni qua các ngã
đường Phan Đình Phùng- Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu và Cách
Mạng Tháng Tám) vào sáng ngày 20 tháng Tư nhuận năm Quý Mão (tức ngày
11/6/1963) Ngài tự tay tẩm xăng ướt đẫm áo cà sa và ngồi kiết già, tay
bắt ấn cam lộ, tay kia châm lửa. Ngọn lửa bốc cao phủ kín thân ngài. Mọi
người quì cả xuống, tiếng nức nở xen lẫn tiếng niệm Phật , tụng kinh
vang cả một vùng. Ngài ngồi yên như vào đại định . Mười lăm phút sau
nhục thể ngài ngã xuống. Bầu trời Sài Gòn đang nhộn nhịp sinh hoạt như
lặng đi chìm xuống cảnh ảm đạm thê lương, như báo trước những điều
“không bình thường” sắp xảy ra đối với chế độ nhà Ngô. Chiều
ngày 11/6/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ra lệnh phong toả các chùa,
nhất là chùa Xá Lợi nơi đặt thi hài Hoà Thượng. Cảnh sát được huy động
để ngăn chặn làm sóng người đang từ khắp mọi nẻo đường đổ về đây. Ảnh
của Hoà Thượng ngồi yên như tượng đá trong ngọn lửa hồng được đăng tải
trên khắp các báo năm châu, như một làn sóng điện lan truyền cực nhanh
làm sôi nổi dư luận trong và ngoài nước. Mục sư Donalds Harrington (Mỹ)
đã xem cái chết của HT.Thích Quảng Đức giống như cái chết của Chúa Giê
Su, Michel Servetus, Jeanne d’Arc. Ông còn nhận định “sự tự thiêu của
Ngài đã cứu vớt bao sinh linh đang chìm đắm trong khổ hận , kẻ đàn áp
cũng như kẻ bị đàn áp đều bừng tỉnh… Ngài đã tô đậm nét son vào trang sử
huy hoàng của Phật giáo và dân tộc Việt.” Điều kỳ diệu nhất là
sau khi hoả thiêu Ngài còn để lại cho đời một quả tim “kim cương bất
hoại”, dù đã được thiêu lại nhiều lần ở nhiệt độ cực cao, nhưng trái tim
vẫn không thể nào bị hủy diệt. Trái tim xá lợi đó chính là di chúc về
lòng thương yêu bất diệt, như ý nguyện của ngài đã dặn dò cùng đồng đạo
và tăng chúng. Ngay cả đối với chế độ bạo tàn, kỳ thị Ngô Đình Diệm
Ngài cũng không một lời oán trách , chỉ mong “…Phật tổ gia hộ cho Tổng
Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của
Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn. ….Cầu nguyện cho đất nước
thanh bình, quốc dân an lạc. Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân
trọng kính gởi lời cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái, từ
bi đối với quốc dân và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ
vững nước nhà muôn thuở”… Chính lời di chúc không một chút lòng sân hận
gởi triều đại nhà Ngô đã giúp ta cảm nhận được tấm lòng của một Bồ tát
vị pháp thiêu thân, ngài đang thực hiện tinh thần Phẩm Dược Vương Bồ Tát
Bổn Sự (phẩm thứ 23 của Kinh Pháp Hoa) để thức tỉnh lương tri kẻ cầm
quyền đang bị hôn ám trong vô minh của hận thù, quyền lực và bè nhóm. Đó
cũng là bức thông điệp khẳng định lẽ tình thương tất thắng, hận thù
phải thua. Đức vô uý của nhà Phật được thể hiên sâu sắc trong
hành động vị pháp thiêu thân của Ngài. Đối với dư luận quốc tế, sự hy
sinh của Hòa Thượng Thích Quảng Đức “không những chỉ chống lại chính
quyền Ngô Đình Diệm, mà còn có ý nghĩa chống lại sự bất công, bất chính
trên toàn thế giới… Với hành động lặng thinh,không nói một lời, một vị
Hòa Thượng Việt Nam đã nêu một tấm gương sáng rúng động, một kháng nghị
cao đẹp, lộng lẫy, chống lại mọi sự xấu xa đê hèn của loài quỉ sứ đang
còn tồn tại trong thế giới này”. Họ cũng thừa nhận “đây là trạng thái
mới lạ và huyền ảo của tinh thần bất bạo động. Nó chứng tỏ rõ rệt uy
quyền tối thượng của tinh thần mà không một bạo lực nào có thể làm suy
giảm hay khuất phục được…” Đức vô uý lẫm liệt của Ngài cùng với
cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam đã sản sinh cho đất nước ta một
vị Bồ Tát. Và danh hiệu Nam mô Đại hùng Đại lực Quảng Đức Bồ tát ra đời
từ đó. Tôi xin mượn một khổ thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương trong bài
Lửa Từ Bi làm lời kết … bóng người vượt chín từng mây Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc, Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi, Chỗ Người ngồi : một thiên thu tuyệt tác, Trong vô hình sáng chói nét từ bi….” Lửa từ bi của Hòa thượng Thích Quảng Đức mãi mãi soi đường cho Phật giáo và dân tộc Việt Nam.
|