Tên
chính thức của ngôi chùa này là Di Đà tự hay chùa Tô Châu. Sở dĩ gọi là
Di Đà tự vì chùa thờ Phật Di Đà, còn gọi là chùa Tô Châu là vì làng
Bình Lương (nay là ấp Bình Lương, nơi tọa lạc của ngôi chùa) trước kia
có phong cảnh đẹp và thơ mộng với những cây liễu rủ bóng xuống dòng sông
phẳng lặng trông rất giống Tô Châu của Trung Quốc nên được gọi là chùa
Tô Châu.
Chùa do hòa thượng Đức Hội lập nên vào khoảng thế kỷ thứ 19,
với kiến trúc cổ gồm bốn khu: Tiền đường, Chính điện, Trung đường và
Hậu tổ. Các gian được bố trí theo kiểu tứ trụ, được nới rộng theo hai
chiều ngang, dọc nhờ các kèo dầm, kèo quyết. Bộ giàn trò bằng gỗ quý,
mái lợp ngói âm dương.
Nội điện chùa được bố trí rất đẹp, giữa tứ trụ
là một khánh thờ tượng Phật Di Đà rất lớn. Đấu lưng với khán thờ Phật
Di Đà là Phật Di Lặc. Hai bên khán thờ là nơi thờ các vị: Tiêu Diện
Vương Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thập Điện Minh
Vương, Nam Tào Bắc Đẩu, Quan Thánh Đế Quân, Chuẩn Đề Vương Bồ Tát.
Trung
đường là nơi thờ các vị: Sư tổ Bồ Đề Đạt Ma, Phật Thích Ca Mâu Ni, Tam
Tạng, Quan Thế Âm Bồ Tát, các vị Tổ sư tiền bối và thiện nam, Tín nữ đã
quá vãng. Đây cũng là nơi tiếp khách nên được treo rất nhiều tranh
khuyến thiện và những câu đối mang đầy ý nghĩa thâm trầm của nhà Phật.
Qua
thời gian, chùa Tiên Châu đã nhiều lần xuống cấp và cũng ngần ấy lần
được trùng tu, sửa chữa. Trận chiến Mậu Thân năm 1968 đã gây thiệt hại
không nhỏ cho chùa Tiên Châu. Súng đạn từ thị xã Vĩnh Long và từ các tàu
chiến đã gây cho chùa loang lổ vết đạn, mái ngói bị đổ sập nhiều nơi.
Sau đó, Ban hộ trì Tam Bảo kết hợp với Hội Phật giáo Việt Nam quyết định
trùng tu lại ngôi chùa. Theo đó, mặt tiền chùa được xây bằng bê tông,
có ba giàn cửa sắt. Trên nóc có năm ngọn tháp nhọn, một tháp lớn ở giữa,
bốn tháp nhỏ xung quanh, giữa tháp phía dưới là chữ “Tiên Châu tự”. Hai
gian hai bên mặt tiền được xây dựng theo kiểu cổ lầu, bên trong tôn trí
tượng Thiện Hữu và Ác Hữu, cũng có hoành phi, câu đối ca tụng. Bộ cửa
sắt được thay mới bằng bộ cửa gỗ được đặt đóng từ kinh đô Huế do các
nghệ nhân chạm trổ, tạo hình theo điển tích cổ xưa, đã được lắp ráp
trang trí trong dịp tết Nhâm Ngọ (2002) tô điểm thêm cho kỳ quan một tác
phẩm chạm trổ độc đáo, tinh xảo.
Chùa Tiên Châu được Bộ Văn hóa
Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa năm 1994. Là một ngôi
chùa cổ không chỉ nổi tiếng ở Vĩnh Long mà còn nổi tiếng cả vùng đồng
bằng châu thổ. Bên cạnh sự nổi tiếng về một di tích, danh lam, kiến
trúc…Tiên Châu Cổ Tự còn được biết đến nhiều bởi truyền thuyết Bãi Tiên.
Theo
truyền thuyết, làng Bình Lương ngày xưa phong cảnh hữu tình, khí hậu
thuận lợi nên nhiều người đến đây lập ấp. Họ rất lương thiện và có cuộc
sống cộng đồng rất hòa thuận, nên nơi đây được gọi là làng Bình Lương. Ở
làng Bình Lương, người dân chủ yếu sống bằng nghề chài lưới, đánh bắt
cá tôm là chính.
Vào một đêm trăng sáng, trai tráng trong làng đều
chèo thuyền ra sông đánh bắt cá. Trên bãi cồn, trong một căn lều nhỏ
dưới gốc bần, một cụ già nằm thao thức. Từng cơn gió nhẹ thổi vào mát mẻ
và se lạnh, mang theo mùi hương thoang thoảng của hoa lá hòa quyện với
những âm thanh của côn trùng trong lòng đất tạo thành bản giao hưởng du
dương trầm bổng. Cụ nhìn ra xa bãi cát trắng xóa lắp lánh ánh trăng mờ.
Ánh trăng bàng bạc cùng với luồng ánh chớp lập lòe là những bóng trắng
mờ ảo thướt tha uyển chuyển của bao nàng tiên nữ giáng trần, vui chơi
trên bãi cát. Câu chuyện được truyền miệng trong làng và từ đó lan xa
trong thiên hạ. Cũng từ đó, bãi cát trên khúc sông này được gọi là Bãi
Tiên.
Ngày nay, cù lao An Bình không còn bãi cát trắng xóa ngày nào.
Quang cảnh quanh chùa cũng không còn nên thơ như xưa vì nhà cửa của dân
làng mọc lên san sát. Tốc độ đô thị hóa và lối sống đô thị đã phần nào
cướp đi vẻ vắng lặng êm ắng của một ngôi cổ tự. Nhưng những gì mà ngày
nay chùa Tiên Châu còn giữ được chứng tỏ sự phát triển kinh tế không làm
phai nhòa một nơi được coi là di tích cổ xưa, góp phần làm nên địa danh
lịch sử - Long Hồ dinh.
Nguồn: cuocsongviet