Đó là lúc dân tộc đang đối diện vời sự bành trướng của chủ nghĩa nước
lớn tại Việt Nam, và riêng Phật giáo tại miền Nam thì đang phải chịu đựng một sách
lược Công giáo hóa miền Nam mà trong đó
Phât giáo trở thành đối tượng hàng đầu phải bị khống chế và tiêu diệt. Đã có
nhiều tài liệu của người Việt và người ngoại quốc viết về lần trở mình bi hùng đó
của Phật giáo tại miền Nam.
Tuy nhiên, một công trình quy mô và chính thức của Phật giáo Việt Nam thì
cho đến nay vẫn chưa có. Song song, lại có nhiều “tài liệu” của những thế lực xem Phật giáo là kẻ thù được tung ra làm nhiễu
loạn sự thật lịch sử. Do đó, trong niềm ao ước được thấy một hồ sơ như thế vào
năm 2013, kỷ niệm 50 năm của biến cố 1963, chúng tôi quyết định hoàn thành bài
viết nầy để góp một số thông tin vào hồ sơ đó.
1.2 Thứ đến, sau 1975, tại hải ngoại, lợi dụng tình
trạng thiếu thốn tài liệu và mất dần nhân chứng, một số tàn dư của chế độ Ngô Đình
Diệm, mà tuyệt đại đa số là các tín đồ Công giáo, đã tìm cách mạo hóa lịch sử để
vinh danh chế độ Ngô Đình Diệm. Một trong những nỗ lực nầy là cố ngụy tạo lịch
sử để chứng minh rằng ông Diệm còn thì miền Nam không “rơi vào tay Cọng sản” và bây giờ muốn lấy lại miền Nam thì phải “phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm”. Luận điểm
nầy đẩy Phật giáo lên thành đối tượng bị đánh phá hàng đầu vì trong biến cố 1963,
họ cho rằng chính Phật giáo (chứ không phải vì chế độ thì độc tài chính trị, xã
hội thì bất công thảm nhũng, còn quốc sách “chống Cọng” thì phụ thuộc rồi phản
bội đồng minh) đã làm sụp đổ Ngô triều. Thêm vào đó, trong cuồng vọng muốn thiết
lập một chế độ giáo trị tương lai ở Việt Nam như các Tông huấn của Vatican thúc
dục (nhất là tư tưởng chủ đạo của Tông huấn Á châu Ecclesia In Asia 1999 mà Giáo hoàng
Gioan Phao lồ 2 phát động), những người Công giáo hoài Ngô đó lại càng phải tìm
cách phá hoại Phật giáo mà họ xem là phên dậu văn hóa vững chắc của dân tộc Việt
Nam. Từ đó, và thô bạo nhất, họ tìm cách bôi nhọ cuộc tự thiêu của Hòa thượng
Thích Quảng Đức, biểu tượng bất bạo động và cao điểm tố cáo tội ác của chế độ
Ngô Đình Diệm. Vì vậy, bài viết nầy cũng nhằm vạch ra một số ngụy tạo và xuyên tạc về cuộc Tự thiêu của Hòa thương Thích Quảng Đức. Đồng thời,
trong phần cuối bài viết, cố gắng giải thích vì sao có những ngụy tạo và xuyên tạc đó.
1.3 Cuối cùng,
đặc biệt bài viết sẽ trả lời luận điệu vu khống cụ thể sau đây của một số người
Công giáo hoài Ngô thù ghét Phật giáo: Đó
là Hoà thượng Thích Quảng Đức đã bị ông
Nguyễn Công Hoan, vốn là một điệp viên của Việt Cọng, đầu độc từ trước, và với
sự chỉ đạo của giới lãnh đạo Phật giáo đấu tranh năm 1963, đã thiêu sống Hoà
Thượng khi Ngài đã hoàn toàn mê man. Luận điệu vu khống nầy là nhằm thủ tiêu
giá trị cao cả của cái chết của Ngài Quảng Đức, đồng thời cũng biện hộ cho lời
tuyên bố “nướng sống” (“barbecued”) của
bà Ngô Đình Nhu lúc đi “giải độc dư luận” tại Mỹ là đúng. Và quan trọng hơn, là
nhằm thực hiện lời nguyền “tôi chết trả
thù cho tôi” của người đồng đạo và cũng là lãnh tụ chính trị của họ là ông
Ngô Đình Diệm để, theo lời một số giáo dân tại hải ngoại, dọn đường cho Vatican
phong thánh ông trong tương lai.
Đáng lẽ ra người
cáo buộc phải trưng dẫn bằng cớ, nhưng cho đến nay (2011), chúng tôi chưa thấy
những kẽ hoài Ngô đưa ra được bất kỳ một tài liệu hoặc nhân chứng nào khả tín cả.
Tuy vậy, những cáo buộc nầy cũng có những tác động nhất định trên một số người
nhẹ dạ, hoặc một số người không chịu nghiên cứu, chỉ thích nghe những gì mình
muốn nghe, hoặc những người đóng chốt trong không gian Internet, cứ lập đi lập
lại mãi một điều để tẩy nảo người đọc như Đức Quốc xã và Vatican đã từng làm. Bài viết nầy, do đó, sẽ nhằm chấm dứt các tác
hại đó bằng cách khẳng định lại và chứng minh rằng (i) Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã đơn phương có ý định tự thiêu từ trước,
và cho đến phút chót, Ngài vẫn tỉnh táo
với hành động bật lửa tự thiêu của mình, và (ii) Người tưới xăng lên đầu và thân
thể Ngài Quảng Đức là Đại đức Thích Chơn Ngữ, thế danh Hùynh Văn Hải, chứ không phải “ông Việt Cọng” Nguyễn Công
Hoan.
2- QUYẾT ĐỊNH TỰ THIÊU:
2.1 Ai cũng biết rằng ngay từ đầu, phương
thức đấu tranh của phong trào Phật giáo là bất bạo động. “Tự thiêu” là một khái
niệm xa lạ trong phương thức đấu tranh của Phong trào Phật giáo lúc bấy giờ. Giáo
sư Lê Cung ghi nhận như sau:
“Tuân thủ những nội dung trên đây của lý thuyết bất bạo
động, phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 ngay từ đầu đã khẳng định
phương pháp đấu tranh là bất bạo động…
Thật vậy, Trong cuộc hội nghị mật vào tối 7-5-1963 tại chùa Từ Đàm (Huế), giới
lãnh đạo Phật giáo khẳng định phương pháp đấu tranh là bất bạo động. Tiếp theo,
phương pháp đã khẳng định lại một lần nữa trong “Bản phụ đính” bản Tuyên ngôn ngày 10-5-1963 được công bố vào ngày
23-5-1963. Bất bạo động bằng hình thức tự
thiêu vẫn chưa được đặt ra, mặc dầu trong những cuộc tuyệt thực đầu tiên của
Tăng Ni trên toàn miền Nam vào cuối tháng 5, đầu tháng 6-1963, giới lãnh đạo đã
dự tính rằng: “Nếu kéo dài các cuộc rước
linh và tuyệt thực một cách nhàm chán thì phong trào tự nó cũng bị xẹp vì thiếu
những hình thức mới mẻ, gây xúc động mạnh nuôi dưỡng” (Theo Nguyễn Khải, Sư già
chùa Thắm và ông Đại tá về hưu, Báo Lao Động, số 24, ngày 25-3-1993.). Song hình thức mới mẻ là gì vẫn chưa được tìm
ra, ngay cả khi giới lãnh đạo Phật giáo
nhận được bức tâm thư đề ngày 27-5-1963 của Hòa thượng Thích Quảng Đức với nội
dung xin tự thiêu để bảo vệ Phật pháp, họ vẫn không chấp thuận. Trên thực
tế, giới lãnh dạo Phật giáo còn “thật lúng túng, cũng không biết tự thiêu như
thế nào!” (Theo Thích Thông Bửu. Tư tưởng
Bồ tát Quảng Đức, trong “Đại lễ kỷ niệm năm thứ 37 ngày tự thiêu của Bồ tát
Quảng Đức”. Tổ đình Quán Thế Âm ấn hành, tr.15).”
[Nguồn: Lê Cung
- http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-135_4-13730_5-50_6-1_17-23_14-1_15-1/ ]
2.2 Nhưng trước thái độ ngoan cố của chính
quyền Diệm không thật tâm muốn giải quyết “5 Nguyện Vọng” của Phật giáo, thậm
chí còn gia tăng mức độ đàn áp chùa chiền và Tăng tín đồ, HT Thích Quảng Đức đã
gửi cho Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc một lá thư đề ngày 27/5/1963, nói rõ tâm nguyện
muốn được tự thiêu của mình, tâm nguyện vốn đã được ấp ủ từ khi chính quyền Diệm
tiến hành chính sách kỳ thị Phật giáo, đặc biệt khốc liệt nhất tại 5 tỉnh Quảng
Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên và Bình Định trong ba năm 1960, 1961 và
1962. Rồi tâm nguyện đó lại càng thúc bách hơn khi lá cờ biểu tượng của Phật giáo
bị lăng nhục và sau đó máu tử đạo của Phật tử đổ ra tại Huế. Lá thư như sau:
Phật lịch 2507, Sài Gòn ngày 27-5-1963
Kính bạch Hòa Thượng Hội Chủ, Thượng Tọa Trị Sự Trưởng
Chư Thượng Tọa, Ðại Ðức trong Giáo Hội Tăng Già Việt Nam
Kính bạch quý Ngài,
Nhìn lại quá trình lịch sử truyền thống dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã
ghi đậm những nét son huy hoàng trong mọi lãnh vực: học thuật, văn hoá, chính
trị, quân sự, kiến thiết, đã hòa một nếp sống của quần chúng. Qua các triều đại
Ðinh, Lê, Lý, Trần, quốc gia hưng thịnh, Phật giáo đã là cương lĩnh của chính
quyền, của nền pháp trị bình đẳng. Nhưng Phật giáo không vì sự đóng góp hữu
dụng vào quốc sách dân sinh một cách tích cực và chân chính mà khuynh loát, đàn
áp các tôn giáo khác. Ngược lại, Phật giáo đã dung hoà mầu nhiệm cùng với các
tôn giáo khác để cung ứng những tinh ba thuần túy cho sự ích quốc lợi dân.
Tinh thần Phật giáo đã gắn liền với tinh thần quốc gia dân tộc: Phật
giáo thịnh thì quốc gia thịnh, Phật giáo suy thì quốc gia suy. Ðiều này lịch sử
đã minh nhận.
Nhưng hơn một thế kỷ nay, nhất là trong giai đoạn hiện tại, Phật giáo Việt nam luôn luôn nằm trong tình
trạng hổn mang, bi thảm đau thương: nào bị đàn áp, nào bị đối xử bất công,
ngược đãi…Phật giáo đồ bị bức bách
khuynh loát một cách trắng trợn, có nơi bị chôn sống, bị tù đày, có nơi bị cản
trở ngăn cấm cả về hành đạo, tu tập, tụng niệm (như vùng Tuy Hòa, Quảng
Ngãi, Bình Ðịnh). Quyền tự do tín ngưỡng, một quyền bất khả xâm phạm của con
người, đã bị tổn thương chà đạp.
Cao quý thay lòng ẩn nhẫn của Phật tử Việt Nam! Vốn được giáo thụ, un đúc tính
từ bi cao thượng của Ðấng Chí Tôn, Phật giáo đồ chúng ta đã âm thầm nhẫn nhục
chịu đựng một cách chân thành, nhưng kẻ manh động đã cố tình lợi dụng cử chỉ
cao đẹp ấy của chúng ta, gieo mãi thương đau cho Phật giáo đồ Việt Nam.
Mùa Phật Ðản 2507 - 1963 tại Cố đô Huế, một cảnh tang thương đã xảy ra
cho Phật giáo Việt Nam nói riêng, Phật giáo thế giới và nhân loại nói chung là máu Phật tử đã chảy, xương thịt Phật tử đã
nát tan trước họng súng bạo tàn của kẻ ác độc, vô nhân đạo. Thế là những
sinh mạng đã ngã gục và những thân mạng đã mang thương tích trên mình, tất cả
đều muốn phát lộ ý chí của người Phật tử: bảo vệ Chánh pháp, bảo vệ quyền sống
của những con người tin đạo, bảo vệ lá cờ Phật giáo quốc tế mà một phần ba nhân
loại tôn thờ. Ai có thể chối cãi được sự thật của nguyên nhân chính ấy là: lá
cờ Phật giáo bị triệt hạ bởi công điện số 9195 phát xuất từ Phủ Tổng thống,
ngày 6-5-1963.
Trước sự kiện thảm thương ấy, Phật giáo Việt Nam đã đến lúc bắt buộc
phải đứng lên tranh đấu cho lý tưởng tự do tín ngưỡng của mình, được minh định
rõ ràng trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa và đường lối dân chủ pháp trị, cộng
đồng đồng tiến xã hội của Chánh phủ do Tổng thống Ngô Ðình Diệm chủ trương.
Với tính cách ôn hòa bất bạo động, kỷ luật trong sự tranh đấu hợp tình
hợp lý, người Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam cần phải có một ý niệm sáng suốt, tiêu
biểu ý niệm chân chánh, trong giai đoạn vô tiền khoán hậu của lịch sử Phật giáo
Việt Nam.
Vậy tôi tên là Nguyễn Văn Khiết, pháp danh Thị Thủy, pháp hiệu Thích
Quảng Ðức, tu sĩ Giáo hội Tăng Già Việt Nam, mang thẻ căn cước số 399703, cấp
tại quận Tân Bình ngày 21-12-1962. Hiện tọa chủ chùa Long Phước, xã Ninh Quang,
Khánh Hòa, xác định rằng:
1.Năm nguyện vọng tối thiểu ghi trong Bản tuyên ngôn của Tăng tín đồ
Phật giáo là phản ảnh tinh thần chân chính của Phật giáo Việt Nam.
2.Nguyện luôn luôn son sắc bền chí với lý tưởng tranh đấu hợp tình hợp
lý, bất bạo động của Phật giáo đồ Việt Nam.
3.Triệt để tuân theo và ủng hộ các cấp lãnh đạo Phật giáo.
Và để minh định lập trường của chúng tôi, chúng tôi tự nguyện thiêu đốt thân này nếu Chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa không làm thỏa mãn nguyện vọng ghi trong Bản tuyên ngôn
là phản ảnh tha thiết mong cầu của toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam
bất diệt!
Lá cờ Phật giáo không thể bị
triệt hạ!
Và xin quý Thượng Tọa chấp thuận, chuyển tới toàn thể tín đồ lời ước
nguyện cuối cùng của chúng tôi: " Phật tử chúng ta hãy cùng nhau tự nguyện
tự giác, bền chí với sứ mạng duy trì Chánh pháp và bảo vệ lá cờ Phật
giáo."
Kính
Tỳ khưu Thích Quảng Ðức
(Nguyễn Văn Khiết- đóng dấu và ký tên)
[Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-139_4-5380_5-50_6-1_17-46_14-1_15-1/ ]
2.3 Vài ngày sau đó, vị Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Việt Nam là Thượng Tọa
Thích Tâm Giác, đã từ chối nguyện vọng
“tự
nguyện thiêu đốt thân nầy” của
Ngài trong một lá thư nguyên văn như sau [trích từ bài viết của ông Trần
Kim Cường]:
“Kính gởi Đại Đức Tỳ Khưu Thích Quảng Đức
(Nguyễn Văn Khiết).
Kính bạch Đại Đức
Tôi trân trọng tin để Đại Đức rõ, sau khi
tiếp nhận văn thư của Đại Đức đề ngày
27-5-1963 xin Giáo Hội cho phép được thiêu đốt thân xác để cúng dường lên
Tam Bảo nhân vụ biến động ở Huế, vì lý do lá cờ Phật Giáo bị triệt hạ trên toàn
lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa trong ngày Đại Lễ Phật Đản mà tại Huế đã có 9 người
chết và nhiều người bị trọng thương. Với quyết tâm bảo vệ Phật pháp, Đại Đức nguyện hiến xác thân phẩm này bằng cách
thiêu đốt để phản đối chính sách bất bình đẳng Tôn giáo với nhà cầm quyền
và nêu tỏ thái độ hy sinh vì Đạo cao cả mà mình đã tôn thờ.
Giáo Hội rất thông cảm trước ý chí cao đẹp ấy.
Nhưng trên nguyên tắc pháp lý (Luật Phật đã định cũng như Luật Pháp thế gian)
Giáo Hội không thể chấp nhận điều nguyện
thiêu đốt thân xác của Đại Đức được. Vậy xin Đại Đức hoan hỉ và cầu chúc
Đại Đức vô biên an lạc.
Trân trọng kính chào Đại Đức.
Thượng Tọa Thích Tâm Giác ký tên.
Qua lá thư của chính Ngài Quảng Đức và thư trả lời của Giáo Hội Tăng Già, người ta thấy rõ ràng là Ngài
Thích Quảng Đức đã có ý nguyện tự thiêu
từ trước. Không ai có thể cáo buộc Ngài bị thiêu đốt, kể cả các ký giả
ngoại quốc cũng không biết chuyện này. Ngoài ra, cũng theo văn thư trả lời thì
Giáo Hội Tăng Già đã không chấp thuận cho Ngài Thích Quảng Đức tự thiêu, vậy
thì không thể có sự việc cắt đặt người
với tên tuổi đàng hoàng lãnh trách nhiệm tẩm xăng cho Ngài, còn nếu Ngài có
nhờ các đệ tử giúp đỡ trong các công việc, thì những việc làm ấy không phải là
các sự việc được chánh thức sắp xếp, để cho ngày nay các ông cứ phải bàn cãi,
cò kè với nhau.
Vậy thì rõ ràng là cuộc tự thiêu của Thượng Tọa
Thích Quảng Đức không do ai tổ chức cả, khi Ngài muốn điều gì thì các đệ tử của
Ngài chiều theo ý của Ngài mà thôi. Và do việc Giáo Hội không chấp thuận qua
văn thư như trên, nên phải xác định rõ ràng rằng Giáo Hội không có chủ trương
việc tự thiêu của Thượng Tọa, vậy thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
không có lỗi lầm gì trong biến cố này, và cũng do đó mà Chánh phủ Ngô Đình Diệm đã không có lý do gì để truy tố Giáo Hội Phật
Giáo.”
[Nguồn: Trần Kiên Cường - http://quocsam2009.blogspot.com/2011/07/su-that-nao-sau-vu-tu-thieu-lich-su.html#!/2011/07/su-that-nao-sau-vu-tu-thieu-lich-su.html
]
2.4 Trong lúc đó, theo vị Đổng lý Văn
phòng Phủ Tổng thống thời Ngô Đình Diệm là ông Đoàn Thêm (trong “Hai mươi năm qua” và “Những ngày chưa quên”, Đại Nam,
1969) thì ngày 29 tháng 5, lực lượng an
ninh Huế vẫn siết chặt vòng vây “nội bất xuất ngoại bất nhập” ở chùa Từ Đàm ,
nơi mà sinh viên và Phật tử thường tụ họp đông đảo để ủng hộ cho những đòi hỏi
của Phật giáo, đồng thời chính quyền cho cắt điện và nước ở ngôi chùa này.
Trước hành động đàn áp đó của Chính phủ,
ngày 30 tháng 5, Phật giáo tổ chức lễ cầu siêu cho các nạn nhân tại chùa Xá Lợi
và chùa Ấn Quang, các Tăng Ni và Phật tử tuyệt thực 48 giờ, đồng thời 300 Tăng
Ni biểu tình trước Quốc hội với những khẩu hiệu yêu cầu Chính phủ thỏa mãn 5
nguyện vọng của Phật giáo.
Thấy tình hình bắt đầu căng thẳng, ngày 1
tháng 6, Chính phủ Diệm thay vị Đại biểu Trung phần Hồ Đắc Khương, Tỉnh trưởng
Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng, là những người mà Chính phủ cho là nhu nhược thân
Phật giáo, bằng các ông Nguyễn Xuân Khương và Thiếu tá Nguyễn Mâu (một si quan Công
giáo ở trong đảng Cần Lao) để hai nhân vật này hành động quyết liệt hơn trong
việc đàn áp Phật giáo.
Vì tình hình nghiêm trọng đó, chính phủ đã
thành lập ủy ban Liên Bộ và Phật giáo hình thành Ủy ban Liên Phái để thương
nghị với nhau. Trong khi hai ủy ban đang tiến hành những buổi họp đàm phán thì
lực lượng an ninh vẫn bao vây chùa chiền và gia tăng các biện pháp cắt điện,
cắt nước tại các chùa lớn ở Huế và Đà Nẵng. Riêng tại chùa Tỉnh Hội Nha Trang,
cảnh sát và công an còn chăng kẽm gai chận đường các Phật tử vào chùa và cản
trở việc đi lại của các Tăng Ni từ Sài Gòn về các tỉnh và ngược lại. Cho đến
ngày 7 tháng 6, trước phản đối của Phật giáo, Ủy ban Liên Bộ mới công nhận hành
động thiếu thiện chí đó và gởi văn thư trả lời cho Ủy ban Liên Phái là đã cho
cấp lại điện nước và quân đội không chận đường vào chùa nữa.
Nhưng dù có văn thư chính thức của Ủy ban
Liên Bộ, những hành động chống phá Phật giáo vẫn tiếp tục xảy ra càng lúc càng
thô bạo tại các địa phương và ngay giữa thủ đô Sài Gòn. Độc hại hơn nữa, chính
quyền đã cho một số công an và cảnh sát cạo đầu, giả vờ mặc áo nâu hay áo lam
của tăng sĩ để ra chợ chọc gái, ăn thịt, uống rượu, mua hàng không chịu trả
tiền,... rồi đưa lên báo nhằm bôi lọ các
nhà sư và xuyên tạc cuộc đấu tranh
của Phật giáo.
Ngày 8 tháng 6, trong một thông cáo gửi
cho Phong trào Phụ nữ Liên Đới, bà Nhu còn công khai lên án và hăm dọa Phong trào
Phật giáo khi tố cáo những người trong phong trào Phật giáo là hợp tác với Cọng sản và yêu cầu chính
quyền phải có biện pháp quyết liệt với phong trào đấu tranh.
Để ứng phó với thái độ phá hoại và không
có thiện chí giải quyết nguyện vọng đó của chính quyền, Phật giáo đành phải lấy những hành động hy sinh quyết liệt hơn mong
cảnh tỉnh và khai thông đầu óc giáo điều của cấp lãnh đạo Chính phủ. Trong
một ngôi chùa vắng lặng giữa Sài Gòn sôi động, Ngài Thích Quảng Đức đã lấy một
quyết định làm chuyển đổi cả một chế độ và đẩy lịch sử Việt Nam lên một chiều
cao bi hùng mới.
Quyết định đó được trình bày một cách thấu
tình đạt lý của một ngưòi vừa là Phật tử vừa là công dân trong “Lời Nguyện Tâm Quyết”, nguyên bản được
viết bằng chữ Nôm, và được dịch ra tiếng Việt Latinh để phổ biến trong giai đoạn
đó. Sự hình thành của văn bản đó được kể lại như sau:
“Về một bức thủ bút chữ Nôm của Hòa thượng Thích Quảng Đức” của Phạm Quý Vinh (nguồn: Tạp Chí Sông Hương số 227 - 2008) đăng lại với phiên bản điện tử năm 2009 trên
http://tapchisonghuong.com.vn/
“Trước lúc tự thiêu, Thích Quảng Đức có để lại một bức thủ
bút bằng chữ Nôm(2). Đây là một văn bản rất ít người được biết đến
và chính là lời tâm nguyện của Thích Quảng Đức trước lúc đi về miền Tây phương
cực lạc. Bởi vì, nó không những nêu lên được ước nguyện của một con người mộ
đạo, mà nó còn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi khó trả lời: Tại sao trong lúc
chữ Quốc ngữ đang thịnh hành thì Thích Quảng Đức lại dùng chữ Nôm (loại chữ do
dân tộc Việt Nam
sáng tạo) để viết? Phải chăng là Thích Quảng Đức đã đề cao bản sắc văn hoá dân
tộc Việt Nam!
Với những
giá trị về lịch sử của văn bản, chúng tôi xin được giới thiệu bức thủ bút của
Thích Quảng Đức. Vì bản photocopy có đôi chỗ mờ nhạt nên trong quá trình chế
bản vi tính sẽ không tránh được những thiếu sót nhất định, hy vọng là những ai
quan tâm và hiểu biết sẽ đóng góp những ý kiến chân tình để cho bản vi tính và
phiên âm được hoàn chỉnh hơn. Nội dung của bức thư cụ thể như sau:
Phiên âm:
Lời nguyện tâm quyết
Tôi là Tỳ kheo Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm Phú Nhuận Gia
Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa. Tôi là một tu sĩ mệnh
danh là trưởng tử của Như Lai, không lẽ cứ ngồi điềm nhiên toạ thị để cho Phật
giáo tiêu vong, nên tôi vui vẻ phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dưỡng
chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật,
chư Đại Đức, Tăng ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau:
Một là mong ơn Phật Trời gia hộ cho tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt
chấp nhận năm nguyện vọng của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên cáo.
Hai là nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam
được trường tồn bất diệt.
Ba là mong nhờ hồng ân Đức Phật gia hộ cho chư Đại Đức, Tăng ni, Phật
tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ ác.
Bốn là cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.
Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho tổng
thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân, đều thi hành
chính sách bình đẳng tôn giáo để nước nhà xưng yến muôn thuở. Tôi thiết tha kêu
gọi chư Đại Đức, Tăng ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn Phật
giáo.
Nam Mô A Di Đà Phật
Làm tại chùa Ấn Quang ngày bốn tháng sáu năm một ngàn chín trăm
sáu mươi ba.
Tỳ kheo Thích Quảng Đức thủ ký.
Bằng lời lẽ
nhẹ nhàng, cô đúc nhưng lại giàu tính thuyết phục, Thích Quảng Đức đã gởi gắm
tâm nguyện của mình vào bức thư tuyệt mệnh với mong ước bảo vệ Phật giáo ở Việt
Nam.
Đó quả là một tấm gương một lòng vì đạo pháp mà xưa nay hiếm vậy.
P.Q.V
(2) Văn bản này chúng tôi vừa sưu tầm được từ
một thượng tọa ở chùa Thiền Lâm (Biết chúng tôi có hiểu biết về Hán Nôm, nên
thượng tọa đã tặng chúng tôi một bản photocopy bức thủ bút này).”
Như vậy, qua ba lá thư nói trên (thư xin tự thiêu ngày 27/5, thư trả lời của Giáo
hội Tăng Già, thư “Lời nguyện Tâm quyết” 4/6), chúng ta thấy quyết định tự thiêu của Ngài
Thích Quảng Đức là một quyết định xuất
phát từ những động cơ sâu sắc, có suy nghĩ chính chắn. Quyết định lại đi
theo một trình tự hợp lý, biến thiên
theo mức độ trầm trọng của tình hình. Và dù bị từ chối, cá nhân Ngài vẫn quyết tâm hoàn thành cho được tâm nguyện.
Quyết tâm đó, tâm nguyện đó, không
chứa một mảy may hận thù và tuyệt vọng nào mà trái lại còn thấm nhuần tình
thương và hy vọng thì, lúc đó cũng như bây giờ, những kẻ ngoại đạo hay
giáo gian mang tâm cảnh hận thù làm sao hiểu được, lại càng làm sao chấp nhận được.
Đó là về phần Hòa thượng Thích Quảng
Đức. Còn diễn biến cuộc tự thiêu thì sao ?
3- NĂM NHÂN CHỨNG BẤT KHẢ PHỦ BÁC:
Về cuộc tự thiêu của Ngài Quảng Đức,
chúng ta có gần cả ngàn nhân chứng nhìn chăm chú vào nhất cử nhất động của Ngài.
Không những nhìn bằng mắt mà còn “nhìn” bằng máy chụp ảnh và máy quay phim nữa.
Họ là hơn 500 Tăng Ni và hàng trăm Phật tử và đồng bào Sài Gòn có mặt tại ngã tư
Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt vào buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963. Cũng có
mặt hôm đó, ngoài nhân viên mật vụ chìm và nổi của chế độ Diệm có nhiệm vụ theo
dõi hoạt động của phong trào Phật giáo, có lẽ cũng có những nhân viên “đặc biệt”
của những tổ chức cũng “đặc biệt” không kém của chính quyền nước ngoài như Mỹ và
Vatican, vốn là hai nước gắn bó chặt chẻ và có nhiều quyền lợi thiết thân với
chế độ Diệm ở Việt Nam.
Nhưng trong số gần cả ngàn nhân
chứng đó, để tái dựng lại cuộc tự thiêu của Ngài Quảng Đức một cách trung thực,
có năm vị mà chúng tôi cho là có độ khả tín cao, có thể tin vào lời chứng hoặc
hình ảnh của họ. Đó là hai tu sĩ Phật giáo có trực tiếp đóng vai trò trong động
thái tự thiêu (TT Thích Đức Nghiệp và
ĐĐ Thích Chơn Ngữ), một nhân viên làm
việc cho cơ quan Mỹ và/hoặc chính quyền Diệm được giao nhiệm vu theo dõi và báo
cáo (ông Nguyễn Văn Thông), và hai ký
giả nước ngoài chuyên nghiệp làm việc cho các cơ quan truyền thông uy tín quốc
tế (nhiếp ảnh gia / nhà báo Malcolm
Browne và nhà văn / nhà báo David
Hamberstam). Họ là những người có mặt tại chỗ, chức năng của họ là ghi nhận
sự kiện một cách trung thực và sau đó, bằng cách nầy hay cách khác, phổ biến một
cách công khai trên toàn thế giới.
3.1 – Sau đây là trích đoạn Hồi ký của Thượng tọa Thích Đức Nghiệp, nhân chứng thứ nhất, người
chịu trách nhiệm sao cho cuộc Tự thiêu được hoàn thành:
“Vào 14 giờ, ngày 30-5-1963, đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ở Huế
đã ra chỉ thị cho các cấp Phật giáo phải tổ chức tuyệt thực đòi hỏi chính quyền
thực thi năm nguyện vọng. Tại Sài Gòn, Ủy Ban Liên Phái chúng tôi tuân luyện tổ
chức ngay một cuộc biểu tình tại Công trường Lam Sơn trước quốc hội, từ 12 giờ
5 phút tới 5 giờ chiều, rồi diễn hành, căng biểu ngữ, về tới chùa Xá Lợi tuyệt
thực suốt 48 giờ. Dịp này có Hòa thượng Thích
Quảng Đức tham dự và Ngài có gởi một
bức tâm thư xin tự thiêu lên Ủy Ban Liên Phái, đề ngày 27-5-1963. Tuy
nhiên, Ủy Ban Liên Phái bác bỏ nguyện vọng tự thiêu này
Sau cuộc tuyệt thực đó, Ủy Ban Liên Phái lại tổ chức rước linh hàng tuần vào
mỗi buổi sáng ngày chủ nhật, để luân phiên cầu siêu tại các chùa trong Sài Gòn;
Chợ Lớn, Gia Định, là trụ sở chính của mỗi giáo phái trực thuộc Ủy Ban Liên
Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam.
Thế nhưng, về phía chính quyền, ông
Diệm vẫn cứ trơ trơ trước dư luận lên án gắt gao của nhân dân Việt Nam và
thế giới. Độc ác và bất nhân hơn nữa là ông Diệm lại còn hạ lệnh bắt bớ thêm,
phong tỏa thêm các chùa trên toàn quốc, thậm chí ông còn cho những thuộc quyền
thẳng tay cắt đứt điện nước và tuyệt đường lương thực của các chùa chủ yếu.
Bởi vậy, vào 8 giờ tối ngày 10-6-1963, hai Thượng tọa Tâm Châu và Thiện Hoa có
cho xe vào Ấn Quang, mời tôi (Thích Đức Nghiệp) ra Xá Lợi bàn Phật sự gấp. Khi
tới Xá Lợi, tôi gặp hai vị Thượng tọa đang ngồi phòng khách.
Thượng tọa Thiện Hoa nói là:
- Phật giáo mình đương bị lâm nguy quá, nhất là tại Huế hiện nay...
Thượng tọa Tâm Châu nói theo:
- Ngày mai, buổi sáng chủ nhật, tới phiên tôi rước linh và cầu siêu tại
chùa Phật Bửu Tự, do Hòa thượng Thích Minh Trực tổ chức, tại đường Cao Thắng,
Quận 3. Vậy Thầy về hỏi lại ý nguyện tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức, hiện
đương tụng kinh Pháp Hoa tại Ấn Quang. Nếu Hòa thượng đồng ý, thì ngay sau khóa lễ ở Phật Bửu Tự,
trên đường về Xá Lợi, Thầy tìm mọi cách có hiệu quả nhất, để Hòa thượng Quảng Đức được tự nguyện tự thiêu, đồng thời
để cứu nguy cho Phật giáo hiện nay.
Khi về, tôi gặp ngay Hòa thượng Quảng Đức ở chùa Ấn Quang
Sau khi tôi hỏi :
- Hòa thượng còn giữ nguyện tự thiêu
như lá thơ Hòa thượng đã gởi cho Liên Phái trước đây không ?
Hòa thượng mừng rỡ trả lời : Tôi sẵn sàng tự thiêu để cúng dường Tam Bảo
và để giác ngộ cho chính quyền mau mau thỏa mãn năm nguyện của Phật giáo
Tôi (Thích Đức Nghiệp) nói thêm:
- Vậy Hòa thượng hãy đi nghĩ và sáng mai, con sẽ tổ chức cho
Hòa thượng tự thiêu cho Hòa thượng được thành tựu viên mãn.
Song Hòa thượng nói thêm:
- Đại đức cho tôi được lễ tạ Phật và
Thượng tọa Thiện Hoa, tôi sẽ nói: Ngày mai tôi phải đi xa vì Phật sự, đồng thời
cho tôi viết một lá thơ gởi cho Tổng
Thống Ngô Đình Diệm.
Tôi trả lời đều được cả, nhưng tuyệt đối Hòa thượng không nên để cho ai biết
việc tự thiêu này. Sau đó, tôi đến phòng Thượng tọa Thiện Hoa mới ở Xá Lợi về
để xin ít tiền mua sắm xăng để thiêu và vải để viết biểu ngữ cho sáng ngày mai.
Tiếp theo tôi gọi anh lái xe ô tô Austin của Phật tử Trần Quang Thuận gởi ở Ấn
Quang và nhờ anh ta đi mua xăng và vải, đồng thời tôi nhờ anh ấy chở Hòa thượng
Quảng Đức đi dự lễ tại Phật Bửu Tự.
Kế đó, tôi họp ngay mấy Thầy lại để phân công vào việc sáng mai :
Thầy Chân Ngữ có trách nhiệm đổ hết xăng từ đầu tới chân Hòa
thượng Quảng Đức khi cùng ngồi trên xe Austin
để đi tới ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt trước tòa Đại sứ Cao
Mên.
Thầy Trí Minh phải ngồi cùng hàng
ghế trước để bảo anh lái xe phải dừng lại ở ngã tư đường nói trên, rồi làm bộ
chữa xe để Hòa thượng bước xuống đường và ngồi tự thiêu.
Thầy Hồng Huệ giữ trật tự, Tăng Ni
đi thành hai hàng và xe của Hòa thượng từ từ đi ở giữa.
Tôi (Thích Đức Nghiệp) đi bên cạnh
xe của Hòa thượng. Khi xe ngừng lại Hòa thượng bước xuống, tôi trao tay Hòa
thượng bao quẹt và bao diêm để Hòa
thượng tự bật lửa thiêu.
Bùng cháy ! Ngọn lửa ngất trời !
Không thể nào tả xiết nỗi bàng hoàng của tất cả Tăng Ni và những người đứng
xung quanh ! Lệ rơi ! Tiếng khóc vang lên !
Lập tức, tôi yêu cầu hai mươi vị
Tăng Ni ra nằm chặn ở bốn đầu đường để xe cứu hỏa không thể vào nơi thiêu của
Hòa thượng Quảng Đức. Biết rằng trong lúc tự thiêu này, có cả Simon Michaud, đại diện hãng thông tấn
AFP của Pháp; Malcome Browne, đại
diện AP của Mỹ và Neel Shihanm, đại
diện UPI; đều chứng kiến tận mắt và xe của Đại tướng Hawkins Mỹ cũng tới chỗ
hỏa thiêu này.
Sau 30 phút, thi hài của Hòa thượng Thích Quảng Đức được rước về chùa Xá Lợi
trên một lá cờ Phật giáo. Tới cổng chùa ông Mai Thọ Truyền nằm lăn trên đất
dưới thi hài của Hòa thượng từ cổng tới cửa nhà giảng. Rồi những làn sóng người
bốn phương tràn tới chùa Xá Lợi để kính viếng một Bồ tát đã thiêu thân. Đài
phát thanh trong nước và khắp thế giới đều kính cẩn đưa tin tự thiêu này.”
[Nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-139_4-5393_5-50_6-1_17-46_14-1_15-1/
]
(Ghi chú: Bài phỏng vấn nầy được thực hiện hơn 40 năm sau biến cố Tự
thiêu nên có vài danh xưng TT Đức Nghiệp đã dùng không chính xác. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, những điểm quan trọng khác thì đều đáng tin vì ăn khớp với dữ kiện của
các nhân chứng còn lại)
3.2 - Đại đức Thích Chơn Ngữ,
người tưới xăng lên mình Ngài Quảng Đức, là nhân chứng thứ nhì:
Đại đức Thích
Chơn Ngữ, thế danh Huỳnh Văn Hải, vốn là đệ tử của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ở chùa
Tường Vân tại Huế. Đại đức người Huế, vào khoảng 30 tuổi vào năm 1963, người tương đối cao lớn nên được phân công đổ
xăng lên thân thể Hoà thượng Quảng Đức. Vì tham gia vào vụ tự thiêu trong vai
trò đó, ĐĐ Chơn Ngữ đã bị chính quyền Diệm bắt giam để khảo cung, và bị tra tấn
tàn bạo làm hư hại bộ phận sinh dục không thể có con. Sau khi chế độ Diệm sụp
đổ, ĐĐ Chơn Ngữ được một học bổng đi du học và tốt nghiệp Tiến sĩ đệ tam cấp
(Docteur Troisième Cycle) tại Pháp. Cuối năm 1973 hay đầu năm 1974, ĐĐ về nước
và dạy tại Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, sinh viên ghi danh theo học lớp của ĐĐ
khá đông. Sau 1975, trong tình hình mới nhiều phức tạp, Đại đức cởi áo xuất tu,
trở lại với thế danh Huỳnh Văn Hải. Rồi khoảng năm 1981, theo phong trào boat people, ông vượt biển đến Indonesia.
Ông được nhập cư vào Mỹ, sống ở Los Angeles một
thời gian và cuối cùng về định cư tại thành phố San Jose
ở bang California.
Hiện nay (2011), ông Huỳnh Văn Hải đã già yếu, gần 80 tuổi nên thị lực kém, và đang
ở vùng Bay Area. Ông có một số bà con ở tại Orange
County, miền nam California
và ở Houston, tiểu bang Texas.
Năm 1985, trả
lời cho tạp chí Chấn Hưng do một số cư sĩ Phật giáo ở Los Angeles chủ trương, ông
Huỳnh Văn Hải (nguyên là Đại đức Thích Chơn Ngữ), người vừa là nhân chứng vừa
đóng vai trò quan trọng trong cuộc tự thiêu của Ngài Quảng Đức, đã kể lại như
sau:
“... Ngày 15
tháng 5, Tổng thống Diệm bất đắc dĩ phải tiếp phái đoàn Phật giáo gồm 5 vị:
Thượng tọa Thiện Hoa, Thiện Hòa, Hành Trụ, Tâm Châu và Đôn Hậu, nhưng ông Diệm
đã không thực tâm giải quyết vấn đề. Do đó, ngày 16 lại có nhiều cuộc tuyệt
thực khác và biểu tình rầm rộ trước Quốc Hội, nhưng chính quyền vẫn không đả
động gì đến những yêu cầu của Phật giáo đồ... Bây giờ câu hỏi rất quan trọng
được đặt ra là việc tự thiêu, người hưởng ứng đầu tiên là Ngài Quảng Đức.
... Lúc 10 giờ
sáng ngày 11 tháng 6 năm 1963, tôi dìu Ngài ra đến cổng chùa, thầy Đức Nghiệp
mở cửa chiếc xe Austin đã đậu sẵn, mời Ngài lên. Xe gặp đường Phan Đình Phùng
quẹo phía trái là đường Lê Văn Duyệt, tài xế dừng xe lại, xung quanh tôi các
tăng ni đã đứng chật ních bao vây ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng.
Tay trái tôi
xách thùng xăng, tay mặt tôi dìu Ngài bước ra xe và mời Ngài ngồi xuống. Ngài
ngồi “Kiết Già” tay mặt đặt lên tay trái. Tôi cầm thùng xăng đáng lẽ tưới lên
vai Ngài, nhưng vì hốt hoảng lo sợ mật vụ tới nên đã đổ xăng từ đầu Ngài trở
xuống. Ngài mở hộp diêm rút 5, 6 que rồi
quẹt mạnh. Lửa tức tốc bừng cháy đốt ngay thân xác Ngài như một pho tượng
trong khi các tăng ni quỳ xuống vừa khóc vừa niệm: A Di Đà Phật.
Tiếng niệm Phật
rất não nùng thê thảm trong lúc ngọn lửa càng bốc cao, phủ kín cả người Ngài,
nhưng Ngài vẫn ngồi vững như bàn thạch chấp hai tay trước ngực.
Sau 7 phút toàn
thân Ngài ngã xuống nhưng hai tay vẫn còn chắp trên ngực. Xung quanh các tăng
ni vừa bái lạy vừa khóc, vừa niệm Phật, nhưng có một người vẫn đứng thẳng như
một trụ đá, không khóc, nét mặt rất đau thương đến độ trông rất lạnh lùng, chấp
hai tay nhìn thẳng vào thân xác cháy đen của Ngài Quảng Đức. Đó là Thượng Tọa
Thích Tâm Châu mà nay là Hòa thượng tu hành tại nước Pháp.
Ngài Quảng Đức
đã hiến mình cho Đạo Pháp bằng cách an nhiên tọa thuyền trong biển lửa cao
ngút. BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC đã tự đốt mình để bảo vệ Đạo Pháp lúc lâm nguy và để bảo
vệ quyền Tự Do Tín Ngưỡng. Hành động can đảm và tuyệt vời này của Ngài đã làm
cả thế giới khâm phục và đã thức tỉnh lương tri nhân loại rằng đàn áp, chém
giết chỉ gieo rắc thêm hận thù. Bạo lực sẽ thất bại trước TỰ DO, CÔNG BẰNG,
TÌNH THƯƠNG và lòng KHOAN DUNG.
Trích từ “Cuộc Tự Thiêu Lịch Sử” - Nguyệt san Chấn Hưng số 4, tháng 8 năm 1985, trang
2, 3 và 19. Los Angeles,
Hoa Kỳ.”
Lúc bấy giờ, nguyệt
san Chấn Hưng chủ yếu được phổ biến trong các chùa và cộng đồng cư sĩ Phật giáo
ở Mỹ. Và 24 năm trước đây, phần trích đoạn ở trên của bài viết “Cuộc Tự Thiêu
Lịch Sử” đã được cụ Hoành Linh Đỗ Mậu in lại trong tác phẩm “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Phụ Lục
A, số thứ tự 27, trang 1083 và 1084, ấn bản 1987, và được tiếp tục duy trì trên các ấn bản tiếp theo, kể cả ấn bản điện tử
2007.
Ấn
bản 1987 của tác phẩm “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”, Phụ Lục A, số thứ tự 27, trang 1083 và 1084
[Nguồn:
- http://www.sachhiem.net/HOANHLINH/VNMLphlucA.php
;
- http://www.giaodiemonline.com/2008/vnmlqht/phuluca.htm
và
- http://www.chuyenluan.net/index.php?option=com_content&view=article&id=5036:y-kien-nhan-si-ve-hoi-ky-do-mau&catid=2:khaocuu&Itemid=4
]
3.3 - Nhiếp ảnh gia Nguyễn Văn Thông, nhân chứng thứ ba, người
được một cơ quan Mỹ (cũng có người
nói ông làm cho mật vụ của chính quyền
Diệm) “thuê” chụp ảnh các cuộc biểu
tình của Phật giáo tại Sài Gòn, và đã có mặt để ghi lại bằng ảnh cuộc Tự thiêu
của Ngài Quảng Đức. Có ba người đã gặp ông Nguyễn Văn Thông để nghe ông kể lại
chi tiết vụ tự thiêu năm 1963 của Ngài Quảng Đức:
3.3.1 “Hôm 30/5/2010,
nhà nhiếp ảnh Duy Anh, phụ trách
Cate Nhiếp ảnh (GoNews), đã đến thăm đồng nghiệp lão thành Nguyễn Văn Thông tại
nhà riêng của ông ở Cư xá Đô thành, Quận 10, TP.HCM. Ông là tác giả bức ảnh Tự
thiêu, đã đoạt Giải Ngân hài bạc Anh quốc, và Huy chương đồng Phần Lan 1964.
(Ảnh: Cẩm An)
Tác giả Nguyễn Văn Thông kể với GoNews: “Chiếc xe hơi dừng giữa đường, giả như hư
máy, các tăng ni chặn kín các ngả đường… Sau khi người đẫm ướt xăng, Hòa thượng
bật quẹt (đá lửa) do ướt xăng nên không
cháy, nên ông nhận cái hộp quẹt khác rồi bật tiếp. Lửa cháy… Tôi chụp và
khóc, tay run lên… vì thấy nhà sư cao cả quá! Sau đó, tôi phóng một tấm lớn
50x60cm tặng cho nhà chùa. Năm sau (1964), tôi mới gởi ảnh ấy đi dự thi...".
[Nguồn: Trần Kiên Cường - http://quocsam2009.blogspot.com/2011/06/anh-thoi-su-vi-ai-nhat-moi-thoi-ai.html#!/2011/06/anh-thoi-su-vi-ai-nhat-moi-thoi-ai.html
]
Nhiếp ảnh gia Duy Anh và ông Nguyễn Văn Thông, ngồi bên phải. - Ảnh T1 chụp Ngài Quảng Đức lần tràng hạt và
bắt đầu niệm: "Nam
mô A Di Đà Phật" trước khi tự tay châm lửa. Mọi nguời chung quanh bắt đầu
hoảng hốt.
Khi ngọn lửa rừng rực bùng lên, Bồ tát Thích Quảng Đức vẫn tự tại ngồi kiết
già, gương mặt không lộ chút đau đớn - ảnh T2
và T3 của Nguyễn Văn Thông. Ảnh được
Giải Ngân hài bạc Anh quốc, Huy chương đồng Phần Lan 1964, Huy chương bạc Liên
hoan ảnh nghệ thuật Hội Nhiếp ảnh TP.HCM 1990.
3.3.2 Một người thứ nhì cũng gặp ông Nguyễn Văn Thông
sau nầy đã kể lại như sau:
“Ở bên ngoài, chính ông Nguyễn Văn Thông,
mật vụ theo dõi hoạt động đấu tranh của Phật giáo và chứng kiến từ đầu
đến cuối vụ tự thiêu, cũng công khai bác bỏ sự xuyên tạc Bồ tát Thích Quảng Đức
bị chích thuốc mê.
Gần nửa thế kỷ trôi qua, ông vẫn xúc động khi
nhớ lại: “Chúng tôi đã theo sát vụ tự
thiêu này ngay từ đầu ở chùa Xá Lợi. Chính mắt tôi và các cảnh sát khác đều
thấy ngài Thích Quảng Đức khoan thai bước xuống xe, quay mặt xá tứ phương,
rồi ngồi kiết già trước khi chính tay mình châm lửa tự thiêu. Những hành
động bình thản của một nhà tu hành thượng đẳng như vậy không thể là người bị
thuốc mê. Còn các nhà sư khác chỉ đứng vòng quanh tụng kinh cho ngài và ngăn
chặn cảnh sát. Không có bàn tay nào tác động, xâm phạm đến hành động tự
thiêu của ngài”.
Đặc biệt, khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp
đổ, ông Thông đã đem những bức hình mình chụp cận cảnh Bồ tát Thích Quảng Đức
tự thiêu tặng Phật giáo Sài Gòn. Một loạt ảnh đầy đủ từ lúc lửa chưa bùng lên
trên thân thể Bồ tát Thích Quảng Đức đến lúc ngài ngã xuống. Đến lúc đó người
ta mới chính thức biết có một người Việt nữa đã chụp hình được sự kiện thiêng
liêng này ngoài nhà báo Malcolm Browne.
Và những tấm hình đó như một chứng nhân quan
trọng cho hậu thế biết sự thật cuộc vị pháp thiêu thân!”
[Nguồn: http://www.quangduc.com/BoTatQuangDuc/57mothuyenthoai.html
]
3.3.3 Người thứ ba, ông Quốc Việt, cũng đã gặp nhiếp ảnh gia
Nguyễn Văn Thông tại Sài Gòn và cho biết:
“Kể lại cuộc tự
thiêu này, nhân chứng phía bên kia là ông Nguyễn Văn Thông, mật vụ đặc trách
theo dõi hoạt động Phật giáo thời đó, nhớ lại: “Tin tình báo gửi về cho biết
sẽ có biểu tình lớn từ chùa Ấn Quang đến công trường Lam Sơn và sẽ có nhà sư mổ
bụng. Sau này tôi mới biết đó là tin giả để đánh lạc hướng chuẩn bị trấn áp của
cảnh sát”.
Ông Thông kể sáng đó nhóm cảnh sát mật của
mình gồm bốn người mặc thường phục đi trên một chiếc ô tô. Ông Thông phụ
trách hình ảnh, một người viết báo cáo, người khác trực điện đài. Họ chuẩn bị
bám theo các tăng ni đến công trường Lam Sơn (Nhà hát lớn TP ngày nay) và không
biết gì về cuộc tự thiêu sắp diễn ra. Lúc đó, ông Thông còn là cộng tác viên
của hãng Ảnh xã nên ngoài chiếc máy ảnh cảnh sát trang bị, ông luôn mang
thêm chiếc máy ảnh riêng.
Khi chiếc xe Austin chở Bồ tát Thích Quảng Đức từ chùa Ấn
Quang dừng lại ở ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng, tài xế bước xuống giả
vờ sửa xe và nhóm cảnh sát chìm vẫn tưởng thật. Thậm chí khi Bồ tát Thích Quảng
Đức bước xuống xe, ngồi kiết già trên đường, ông Thông vẫn không nghĩ ngài
tự thiêu. Chỉ đến lúc thân ngài bốc cháy như ngọn đuốc ông Thông mới sững
sờ.
Theo phản xạ ông đưa máy ảnh lên chụp, nhưng
tấm đầu tiên bị nhòe vì ông xúc động run tay. Đến tấm thứ hai ông lấy được nét.
Đó cũng là tấm phim cuối cùng của chiếc máy ảnh riêng của ông. Ông liền sử dụng
chiếc máy ảnh thứ hai được cảnh sát trang bị để chụp tiếp đến cảnh lửa tắt, bồ
tát ngã xuống.
Theo ông Thông, có ít nhất ba người chụp
được hình tự thiêu xúc động này là nhà báo Malcome Browne của Hãng thông tấn
AP, một nhà sư và ông. Tuy nhiên, sau đó chỉ có hình của Malcome Browne lan
truyền ra thế giới. Còn ông Thông phải nộp ảnh cho nha cảnh sát và lặng lẽ
giấu đi mấy tấm khác vì lúc đó ông vẫn còn là nhân viên chính quyền nhà
Ngô.
Năm nay đã 86 tuổi, ông Thông hồi tưởng chi
tiết cuộc tự thiêu của Bồ tát Thích Quảng Đức: “Lửa bao trùm thân ngài nóng đến mức chiếc can để gần đó phải chảy ra,
nhưng bồ tát vẫn tĩnh tại ngồi thiền, thản nhiên đón nhận cái chết. Đặc biệt,
khi lửa gần tàn, thân đã cháy đen nhưng ngài vẫn gật đầu về hướng tây mấy lần
như lạy Phật rồi mới bật ngửa ra chứ không ngã sấp xuống.
Xe cứu hỏa, cảnh
sát đổ đến. Các nhà sư nằm chặn trước bánh xe, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ cuộc
vị pháp thiêu thân. Nhiều nhân vật chủ chốt của ngành cảnh sát chế độ Sài Gòn
bấy giờ cũng có mặt nhưng chỉ đứng nhìn, không thể phản ứng được gì trước ngọn
lửa chính nghĩa...”.
[Nguồn: http://www.quangduc.com/BoTatQuangDuc/57mothuyenthoai.html#Kỳ_3:_Vị_pháp_thiêu_thân_]
3.4 -
Thông tín viên Malcolm Browne
(1933 - ), nhân chứng thứ tư, nguyên là Trưỏng nhiệm sở của Thông tấn xã Mỹ
Associated Press tại Sài Gòn. Ông là một trong những nhà báo ngoại quốc
được thông báo trước để quan sát cuộc Tự thiêu của Ngài Quảng Đức. Tấm hình
chụp cuộc tự thiêu của ông được giải thưởng World
Press Photo of the Year (1963).
Malcom Wilde
Browne sinh năm 1933 tại New York City, bang New York. Mẹ ông theo đạo
Tin Lành Quaker còn cha ông là một kiến trúc sư Công giáo. Ông theo học Hóa học
tại một trường Tin Lành Quaker nhưng bị động viên trong cuộc chiến tranh Triều
Tiên, và làm cho tạp chí quân đội Stars
and Stripes hai năm tại chiến trường Thái Bình Dương. Sau đó, ông làm cho tờ
Times Herald Record rồi chuyển qua làm cho hảng thông tấn Associated Press (AP) tại Baltimore từ năm
1959 đến 1961. Sau đó, ông được thăng chức làm Trưởng thông tín viên (Chief Correspondent)
tại Đông Dương. Sau khi được giải thưởng Putlizer nhờ những tấm hình chụp cuộc
tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức,
và nhờ đó nhận được nhiều lời mời cọng tác, ông rời AP năm 1965.
Sau đó, ông còn
làm việc cho đài truyền hình ABC, cho
Đại học Columbia (NY), nhật báo The New York Times, tạp chí Discover. Năm 1991, ông cũng đã tham dự
cuộc chiến Vùng Vịnh. Hiện nay, 11/2011, ông vẫn còn sống ở thành phố New York.
Ông đã xuất bản
một tác phẩm về cuộc chiến Việt Nam
(The New Face of War, Bobbs-Merrill, Indianapolis, 1965) và
nhận nhiều giải thưởng báo chí, trong đó có World
Press Photo of the Year (1963), Pulitzer Prize for International Reporting
(1964), và giải George Polk
về can đảm trong nghiệp vụ báo chí.
Trình tự cuộc tự thiêu (theo thứ tự từ ảnh 1 đến 9)
Ảnh số
(2)
[Nguồn: http://iconicphotos.wordpress.com/2009/06/19/the-immolation-of-quang-duc/
]
Dùng từ khóa “Malcolm
Browne” để truy tìm trên Google
và Wikipedia ta được nhiều hình ảnh
về chiến tranh Việt Nam
của ông, và dĩ nhiên trong đó có những ảnh về cuộc Tự thiêu. Chín tấm ảnh đen trắng của Malcolm Browne được
Word Press bố cục sắp xếp và đánh dấu từ (1) đến (9) ghi lại trình tự từ lúc Đại
đức Thích Chơn Ngữ bắt đầu đổ xăng đến lúc
các vị sư tìm cách cuốn thân xác đã cháy đen của Ngài Quảng Đức trong lá cờ Phật
giáo.
Đặc biệt trong ảnh số (2), Đại đức Chơn Ngữ đã bước rời xa Ngài
Quảng Đức và đi nhanh về hướng các Tăng Ni, để lại HT Quảng Đức một mình tìm cách tự quẹt diêm giữa vũng xăng lênh
láng]
3.5 – Và nhân chứng thứ năm, nhà văn kiêm
nhà báo David Halberstam (1934-2007), chuyên gia
về những vấn đề Việt Nam cho
nhật báo The New York Times tại Việt Nam trong những
năm đầu thập niên 1960’. Ông có mặt tại hiện trường trong cuộc tự thiêu của Ngài
Quảng Đức. Sau đó, ông tường trình lại cuộc tự thiêu nầy trên The New York Times và nhờ vậy được Giải
thường báo chí Putlizer năm 1964, năm ông mới 30 tuổi.
David Halberstam sinh năm 1934 tại thành phố New York, bang New
York. Ông tốt nghiệp Đại học Harvard năm 1955 và đã từng
là chủ bút tờ báo The Harvard Crimson nỗi tiếng của trường nầy.
Ông bắt đầu nghề báo với tờ Daily Times Leader ở
Mississipi. Ông đến Việt Nam năm 1962 với tư cách là một chuyên gia toàn thời về
Việt Nam (full time Vietnam specialist) cho nhật báo The New York Times. Cùng với những đồng nghiệp như Neil Sheehan,
Peter Arnett, Stanley Karnow, … ông đã tường trình sâu sát về chiến tranh Việt Nam,
nhất là cuộc khủng hoảng Phật giáo kéo theo sự sụp đổ chế độ độc tài Ngô Đình
Diệm. Ông cũng là người khám phá ra âm mưu của ông Ngô Đình Nhu cho Lực lượng Đặc
biệt giả dạng Quân đội VNCH tấn công chùa chiền để vu khống các tướng lãnh quân
đội (During the Buddhist
crisis, he and Neil Sheehan debunked the claim by the regime of Ngo
Dinh Diem that the Army of the Republic of Vietnam
regular forces had perpetrated the Xa Loi Pagoda raids, which the American
authorities initially believed, and that instead, the Special Forces loyal to Diem's brother Ngo Dinh
Nhu had done so to frame the army generals).
Năm 1964, ông rời Việt Nam
và được Giải thưởng Pulitzer năm mới
30 tuổi nhờ những phóng sự của ông về chiến tranh Việt Nam. Trong thập niên 1960’s, ông vẫn
làm cho The New York Times để phúc trình
về Phong trào Dân quyền của người da đen.
Sau đó, ông ít hoạt động báo chí mà chủ yếu chú tâm
vào việc viết sách, kể cả sách về thể thao vào cuối đời. Ông mất trong một tai
nạn xe hơi vào ngày 23/4/2007 trên đường đến diển thuyết tại Đại học UC
Berkeley, bang California.
Ông đã viết 21 cuốn sách trong khoảng thời gian từ
1961 đến 2007. Những cuốn nổi tiếng có liên hệ đến Việt Nam là: The
Making of a Quagmire: America and Vietnam during the Kennedy Era. McGraw-Hill.
1965; Ho. McGraw-Hill.
1971; The Best and the Brightest. Ballantine
Books. 1972; October 1964. Ballantine
Books. 1994.
Trong cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức,
ông cùng có mặt tại hiện trường với Malcolm Browne. Sau đó ông kể lại trong The Making of a Quagmire,
trang 211, New York, Random House, 1965, như sau:
"Tôi không muốn nhìn thấy cảnh đó
thêm một lần nữa, một lần đã là quá đủ. Những ngọn lữa tỏa ra từ một con người, thân xác của vị sư từ
từ khô héo dần và co quắp lại, đầu vị sư trở nên đen dần và hóa thành than.
Không khí đượm mùi thịt người cháy; (thì ra) con người cháy nhanh một
cách đáng ngạc nhiên. Tôi có thể nghe từ sau lưng tôi tiếng khóc thổn thức của
những người Việt Nam
đang tụ họp tại đó. Tôi đã quá sốc nên không khóc được,
quá rối rắm nên không ghi chép hay hỏi han gì được, quá hoang mang đến
nỗi thậm chí không thể nghĩ gì được. Khi vị sư ấy tự thiêu, bắp
thịt của vị sư không hề cử động, vị sư không thốt ra một âm thanh nào, cái vẻ
ngoài điềm tĩnh của vị sư thì trái ngược hẳn với đám đông khóc than chung quanh.”
(I was to see that sight again, but once was
enough. Flames were coming from a human being; his body was slowly withering
and shriveling up, his head blackening and charring. In the air was the smell
of burning human flesh; human beings burn surprisingly quickly. Behind me I
could hear the sobbing of the Vietnamese who were now gathering. I was too
shocked to cry, too confused to take notes or ask questions, too bewildered to
even think... As he burned he never moved a muscle, never uttered a sound, his
outward composure in sharp contrast to the wailing people around him.)
[Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/David_Halberstam
và http://en.wikipedia.org/wiki/Thich_Quang_Duc
]
Là
một nhà văn nhậy cảm và một phóng viên sắc sảo cho tờ nhật báo đứng đầu nước Mỹ
về nghiệp vụ thông tin, lại đứng ngay tại hiện trường chắm chú theo dõi, không thấy ông Halberstam đề cập gì đến
động thái bất thường (như “vô hốn”
hay “bị chích thuốc mê”) của Ngài Quảng
Đức trước khi tự thiêu cả.
4- THỬ TÁI DỰNG SỰ THẬT VỀ DIỄN
TIẾN CUỘC TỰ THIÊU
Trong
khi chờ đợi hồ sơ chính thức của Phật Giáo Việt Nam, căn cứ trên các tài liệu và
chứng tích của 4 trong 5 nhân chứng nói trên, ta có thể giải quyết một điểm tuy
không ăn khớp với nhau trong lời kể nhưng lại quan trọng về tình trạng tâm thần của HT Quảng Đức ngay trước
phút tự thiêu:
Nhân Chứng
|
Vật liệu bật lửa
|
Động thái tưới xăng
|
Động thái bật lửa
|
ThT.
Thích
Đức Nghiệp
|
hộp quẹt
bao diêm
|
|
|
ĐĐ.
Thích
Chơn Ngữ
|
bao
diêm
|
ĐĐ
Chơn Ngữ
“đổ xăng lên đầu”
|
HT Quảng Đức “mở hộp
diêm rút 5, 6 que rồi quẹt mạnh”
|
Ô.
Nguyễn Văn Thông
(Ảnh+Bài)
|
hộp quẹt (đá lữa)
bao diêm
|
Ảnh
T1: Sau khi được tưới xăng, Ngài
Quảng Đức ngồi một mình
|
HT Quảng Đức “bật quẹt (đá lửa) do ướt xăng nên không
cháy, nên ông nhận cái hộp quẹt khác rồi bật tiếp” và “chính
tay mình châm lửa tự thiêu”
|
Ô.
Malcolm
Browne (Ảnh
số N)
|
Ảnh
(2): không biết hộp quẹt (hay bao diêm)
|
Ảnh
(1): một vị sư đổ xăng lên đầu
Ảnh
(2): rồi vị sư bỏ đi
|
Ảnh
(2) và ảnh (3): Ngay trước và
ngay sau khi phực lửa, HT. Quảng Đức ngồi kiết già chỉ một mình
|
Nhận
xét: Tuy ĐĐ Chơn Ngữ không nhắc đến hộp quẹt (lighter/briquet) trong lởi kể của mình,
nhưng cả TT Đức Nghiệp lẫn ông Nguyễn Văn Thông đều có nhắc đến có hai nguồn
bật lữa là hộp quẹt và bao diêm. Hơn nữa, ông Thông còn kể
lại một chi tiết đáng nhớ là hộp quẹt (đá lửa) do ướt xăng nên không cháy, vì vậy Ngài Quảng Đức phải xài hộp diêm (phù hợp với
mô tả “mở hộp diêm rút 5, 6
que rồi quẹt mạnh” của ĐĐ Chơn Ngữ). Điều nầy chỉ để chứng tỏ rằng ngay cả vào
những giây phút quyết liệt cuối cùng, HT Quảng Đức vẫn rất tỉnh táo, tự mình biết tìm giải pháp khi bị trở ngại để quyết tâm
đạt được mục đích tự thiêu của mình.
Bây
giờ thì ta có thể tạm thời thử tái hiện cuộc tự thiêu của Ngài Thích
Quảng Đức một cách hợp lý và sát với sự thật nhất theo trình tự
sau đây:
- 1. Ngày
27/5/1963, hơn 2 tuần
trước ngày tự thiêu, Thượng tọa Thích Quảng Đức gởi một lá đơn lên Giáo Hội
Tăng Già, xin được phép phát nguyện tự thiêu. Lá đơn này gữi cho “Hòa Thượng Hội Chủ, Thượng Tọa Trị Sự Trưởng,
Chư Thượng Tọa, Ðại Ðức trong Giáo Hội Tăng Già Việt Nam”
- 2.
Vài
ngày sau đó, Thượng tọa Thích Tâm Giác đã thay mặt Giáo hội trả lời cho
Ngài, từ chối lời thỉnh cầu “trên
nguyên tắc pháp lý (Luật Phật đã định cũng như Luật Pháp thế gian) Giáo Hội
không thể chấp nhận điều nguyện thiêu đốt thân xác của Đại Đức được.” [Theo Trần Kiên Cường]
- 3.
Ngày 4/6/1963, Ngài để lại di chúc bằng một
lá thư chữ Nôm tựa là “Lời Nguyện Tâm Quyết”, trong đó Ngài nói rõ rằng: “Tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như
Lai, không lẽ cứ ngồi điềm nhiên toạ thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi
vui vẻ phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dưỡng chư Phật để hồi hướng công
đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức, Tăng ni chứng
minh cho tôi đạt thành chí nguyện như sau:” [Theo Phạm Quý Vinh / Tạp
chí Sông Hương]. Lá
thư nầy, sau đó được dịch ra tiếng Việt Latinh để phổ biến cho báo
chí và quần chúng.
- 4.
Lúc 10 giờ sáng ngày 11/6/1963, Đại đức Chơn
Ngữ dìu Ngài ra khỏi cổng chùa Bửu Tự ở đường Cao Thắng thuộc Quận 3, Sài Gòn.
Tại đó, Thượng tọa Thích Đức Nghiệp mở cửa chiếc xe Austin đã đậu sẵn, mời Ngài lên. Xe chạy từ từ tiến theo đường Phan Đình
Phùng, hướng về trung tâm thủ đô. Đi hai bên hông xe và đông đảo ở phía sau là
quý Tăng Ni Phật Tử, tất cả kết hợp nhau thành một đoàn khoảng 500 vị, và càng
ngày càng đông thêm vì đồng bào ở hai bên đường đã túa ra rồi tự động đi theo
đoàn. Xe quẹo phía trái vào đường Lê Văn Duyệt, xéo trước mặt Tòa Đại sứ Cambốt thì dừng lại.
Xung quanh, các Tăng Ni đã đứng chật, che kín ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình
Phùng, còn đồng bào đi theo thì bắt
đầu xôn xao vì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra [Theo
TKCường, Thích Đức Nghiệp và Huỳnh Văn Hải]
- 5.
Rồi đoàn Tăng Ni tự động tách ra làm hai, bao
quanh lấy chiếc xe Austin thành một vòng tròn khá rộng, đủ ngăn cả
bốn ngã đường. Ngài được Đại đức Chơn Ngữ dìu ra khỏi xe Austin, đi thong thả và ung dung đến giữa ngã tư đường,
tay cầm tràng hạt, và hai tay chấp vào nhau cúi lạy Chư Phật bốn phương. Đại đức
Chơn Ngữ thi tay
trái xách thùng xăng bước theo, còn Thượng tọa Đức Nghiệp thì trao vào tay Ngài hộp quẹt (lighter/briquet) và bao diêm (matchbox/boîte d’allumette) để Ngài tự bật lửa thiêu. Trong
lúc đó , bác tài xế thì lăng xăng dở
nắp capot máy xe lên làm như đang sửa chữa … [theo
TĐNghiệp, HVHải và TKCường]
- 6.
Đến vị trí ngay giữa ngã tư đường, Đại đức
Chơn Ngữ mời Ngài ngồi xuống. Ngài ngồi “Kiết Già” tay mặt đặt lên tay trái. Đại
đức Chơn Ngữ cầm thùng xăng đáng lẽ tưới lên vai Ngài, nhưng vì hốt hoảng lo sợ
mật vụ tới nên đã đổ xăng từ đầu Ngài trở xuống. Rồi Đại đức Chơn Ngữ để thùng
xăng xuống cách Ngài khoảng một mét rồi bước vội về phía các Tăng Ni, để Ngài
ngồi lại một mình trên vũng xăng lênh láng. [Theo
HVHải, Halberstam và hình B2 của Browne].
- 7.
Một mình, Ngài niệm Phật xong rồi bật hộp quẹt
(lighter/briquet) nhưng vì hộp quẹt ướt xăng nên tia lửa không bật ra để bắt xăng
mà cháy. Ngài bèn mở hộp diêm (matchbox/boîte d’allumette) rút 5, 6 que rồi
quẹt mạnh. Lửa tức tốc bừng cháy đốt ngay thân xác Ngài như một pho tượng trong
khi các Tăng Ni quỳ xuống vừa khóc vừa niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Tiếng niệm Phật rất não nùng thê thảm trong
lúc ngọn lửa càng bốc cao, phủ kín cả người Ngài, nhưng Ngài vẫn ngồi vững như
bàn thạch chấp hai tay trước ngực. [theo Nguyễn Văn
Thông, Halberstam và HVHải]
- 8.
Sau
7 đến 10 phút, toàn thân Ngài từ
từ khô héo dần và co quắp lại, đầu Ngài trở nên đen dần và hóa thành than. Không khí đượm mùi thịt người
cháy. Lửa vẫn bùng cháy khi thân thể Ngài ngã ra phía sau mà hai tay vẫn còn chắp trên ngực. Xung quanh, các
Tăng Ni vừa bái lạy vừa khóc, vừa niệm Phật. Cảnh sát đã cố ngăn vụ tự thiêu nhưng không thể
xuyên qua được đám đông Phật tử đang vây quanh Ngài. Một cảnh sát phi mình vào
và phủ phục trước Hòa thượng nhằm tỏ lòng kính trọng. Những người chứng kiến
phần lớn sửng sốt trong yên lặng, số khác thì khóc thét và bắt đầu cầu nguyện.
Nhiều nhà sư và ni cô cũng như người qua đường vì quá bàng hoàng đã quỳ lạy
trước vị Hòa thượng đang cháy bừng. Một nhà sư tuyên bố nhiều lần qua một micrô
bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt: "Một nhà sư đã tự thiêu. Một nhà sư đã
trở thành con người tử vì đạo”
[Theo Halberstam và hình của Browne cũng như của NVThông] - 9.
Sau
30 phút, thi hài của Hòa thượng Thích Quảng Đức được bọc trong một lá cờ Phật
giáo và rước về chùa Xá Lợi. Tới cổng chùa, ông Mai Thọ Truyền nằm lăn trên đất
dưới thi hài của Hòa thượng từ cổng tới cửa nhà giảng. Rồi những làn sóng người
bốn phương tràn tới chùa Xá Lợi để kính viếng một Bồ tát đã thiêu thân. [theo TĐNghiệp]
Trong khi cố gắng tái dựng lại diễn tiến cuộc tự thiêu, chúng tôi thấy có
ba điểm nổi bật:
(a) Quyết định tự thiêu của Ngài Quảng Đức là
một quyết định hoàn toàn cá nhân, xuất phát từ tâm nguyện riêng của Ngài
muốn cúng dường đạo pháp để cứu nguy cho Phật giáo Việt Nam. Quyết định nầy được ấp ủ từ
lâu, bắt nguồn từ chứng nghiệm tình hình Phật giáo đồ và chùa chiền bị đàn áp
lúc bấy giờ, và đã được thể hiện thành văn từ trước, dù bị các vị lãnh đạo
Phật giáo từ chối.
(b) Sau khi Ngài Quảng Đức ngồi kiết già, người tưới xăng lên mình Ngài
là Đại đức Thích Chơn Ngữ, thế danh là Huỳnh Văn Hải. Sau khi tưới xăng xong thì
Đại đức bỏ đi về hướng các Tăng Ni để Ngài ngồi lại một mình trên vũng
xăng. Ngài Quảng Đức bèn bật hộp quẹt (lighter/briquet) do TT Đức Nghiệp
trao cho nhưng vì hộp quẹt đẩm ướt xăng nên không bắt cháy. Do đó, Ngài vẫn
đủ tỉnh táo để lấy nhiều que diêm trong hộp
diêm (matchbox/boîte d’allumette) do TT Đức Nghiệp dúi vào tay từ trước, chập lại
vào nhau, bật lên, lửa mới bắt đầu bùng cháy phựt lên.
(c) Thật ra, để tái dựng một cách trung thực cuộc
Tự thiêu, chúng ta cần một cuốn phim
được quay tại hiện trường vào lúc đó. Truy tìm trên Google và các nguồn khác,
chúng ta chỉ được những tấm hình tĩnh (still photos) của Browne và ông Nguyễn Văn
Thông. Và dĩ nhiên có một số Video ngụy tạo mà chúng tôi sẽ phân tích ở phần
sau. Tuy nhiên, có một Video ở trong nước, theo góc quay thì có vẽ là của một cơ
quan nào đó của chính quyền VNCH cũ hơn
là của Phật giáo, nay được phát hình lại như phim tài liệu ở trong nước. Theo
chúng tôi thì có lẽ đây là phim động duy nhất của người Việt Nam còn được lưu trữ [Xem Video nầy
ở http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-139_4-5374_5-50_6-1_17-46_14-1_15-1/ ] . Rất tiếc đây là loại phim đen trắng
rất cũ, lại có vẻ đang “quay lén”, nên không rõ ràng. Và chẳng giúp cho chúng
ta xác lập được những diễn biến chi tiết ngay trước khi lửa phựt cháy. Rồi đây,
khi cuốn phim đó được bạch hóa, và được xem phiên bản gốc, hy vọng chúng ta sẽ
có nhiều chi tiết hơn.
5- NHỮNG NGỤY TẠO VÀ XUYÊN TẠC – BÓC TRẦN HAI LỜI
VU KHỐNG
Ngoài rất nhiều
tài liệu ngụy tạo và xuyên tạc sự thật về tình hình Phật giáo dưới chế độ Diệm,
những bài viết vu khống và phỉ báng cấp lãnh đạo cao cấp của Phật giáo Việt Nam
(đã mất hay còn sống, cả ở trong lẫn ngoài nước), những bài gọi là “nghiên cứu
lịch sử” hạ cấp phê phán Giáo pháp của Đức Phật, … đặc biệt có hai cuốn phim
được phát tán trên YouTube để trực tiếp phủ nhận ý nghĩa cao cả của cuộc tự thiêu
của Hoà thượng Thích Quảng Đức, cuộc tự thiêu dẫn đến sự sụp đổ của một chế độ
giáo trị phản dân tộc và phản thời đại, chế độ Ngô Đình Diệm:
■ Thứ
nhất là Video “A shot in ‘Mondo Cane 2’ ”
với tựa đề “Saigon 1963 với vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức”.
Video nầy do billymoc phát lên YouTube ngày 24 tháng
7 năm 2011 (sau đó cũng đã được tinhban1987
phát lên YouTube ngày 18-9-2011 dưới tên gọi khác). Thông tin ghi địa điểm quay
phim là “Sardina tại nước
Ý, phim được thuyết minh bằng tiếng Ý
và phát hành ngày 30 tháng 11 năm
1963 tại Ý”. Phim của hai nhà làm
phim người Ý tên là Guatiero Jacopettit
và Franco Prosperi về những vụ đàn áp
biểu tình tại Sài Gòn và vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức tại ngã tư
Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng”. Phim dài 7 phút 48 giây.
Đây là một
video ngụy tạo rất vụng về, hiện trường và diễn viên có lẽ tại Thái lan hoặc
Cambốt, nhưng tên tiếng Việt của Video (“Saigon
1963 với vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức”) cũng như thông tin đi kèm (phát
hành ngày 30 tháng 11 năm 1963 tại Ý) là chỉ cốt lạc dẫn người xem mà thôi.
Xin đọc bài phân
tích “Clip HT Quảng
Đức tự thiêu diễn lại: từ điểm nhìn chuyên môn”của tác giả Minh Thạnh, trong đó ông đã chỉ ra gần 30 điểm
dàn dựng giã mạo của Video nầy ( http://www.phattuvietnam.net/diendan/16902.html
).
Không rõ phim có
thật do hai người Ý làm không, làm năm nào, và không biết thuyết minh tiếng Ý
mang nội dung gì, nhưng khi dàn dựng cho có
vẻ Việt Nam (nhân vật, khung cảnh, trang phục, diễn tiến sự cố … lại đan
chen thêm những clip thật như đoạn bà Ngô Đình Nhu để tạo hỏa mù) lại đặt tiêu đề
là “Saigon 1963 với vụ tự thiêu của hòa
thượng Thích Quảng Đức” thì rõ ràng những người chế tạo ra đoạn phim video
này nhắm đối tượng là khán giả Việt Nam (nhất là người Việt Nam chỉ xem một lần
rồi không quan tâm đến biến cố 1963 nầy nữa) với một ý đồ rõ rệt: Vụ tự thiêu của
vị sư Thích Quảng Đức là cao điểm của một vụ bạo loạn chống chính quyền với sự đồng
ý của lực lượng … cảnh sát ! (vì Cảnh sát đã không vào cứu vị sư mà ngược lại,
còn giữ trật tự cho vị sư được tự thiêu).
Điều thắc mắc
duy nhất là tại sao (những) người thực
hiện đoạn phim video nầy lại phạm quá
nhiều sơ hở như thế ? Ai xem cũng biết đó là phim dàn dựng, đó là phim ngụy
tạo một sự thật lịch sử ! Thế mà vẫn cho
phổ biến để được những người chống phá Phật giáo phát tán thì những người thực hiện đó có ý đồ gì
?
Dưới đây, chúng
tôi xin bổ túc thêm (cho bài viết của tác giả Minh Thạnh) một số sai lầm khác của
Video nầy (Xin xem ghi chú dưới các tấm ảnh):
V0.03 - Tên phim bằng tiếng Mỹ
Thông tin về cuốn phim
V0.19
Bảng đường sai tiêu chuẫn
V1.06
Sai tiếng Mỹ, trật tiếng Việt
V1.32 Không đúng toà Đại sứ Mỹ
V1.41 Không đúng quân phục
V1.56 Không đúng cổng chùa Xá Lợi
V2.13 Clip thật hình bà Nhu
V2.49 Sư bị bắt vào xe bóng
loáng !
V5.18 Cạo tóc bằng dao cạo
điện
V6.13 Chùa Nam
tông tại Cambốt ?!
V6.30 Cảnh sát đứng … nhìn
V6.53,
6.54, 6.55 và 6.56 liên tục - Đúng vào thời điểm bật
lữa (V6.55) thì đầu một vị sư che
mất HT Quảng Đức ! Vì sao ? Muốn dấu gì ? “người” tự thiêu là một hình nộm ?
Hay là người thật nhưng bị …chích thuốc mê man (drugged) ?
Thứ
nhì là Video “TỰ THIÊU ?” với tựa đề “Thích Quảng Đức – THICH QUANG DUC”.
Video nầy do VIETNAMSAIGON75 phóng lên YouTube ngày 3
tháng 5 năm 2010. Trừ đoạn quay bà Ngô Đình Nhu tuyên bố với báo chí Mỹ về vụ tự
thiêu của HT Quảng Đức (“barbecued” / nướng sư) là động, phần còn lại của video dùng những hình ảnh tĩnh để làm nền cho thuyết minh và thêm
chữ bằng tiếng Việt. Phim dài 4 phút 21
giây.
Nội dung của
Video chủ yếu là để hổ trợ cho lập luận trong cuốn “Biến Động Miền Trung” của ông Liên
Thành được nối kết / link với Video,
rằng giới lãnh đạo phong trào Phật giáo năm 1963 là Cọng sản (“VC Phật giáo Ấn Quang”). Một cách cụ thể,
Video còn cho rằng chính ông “Nguyễn Công Hoan đã dùng chiếc Zipo loại
lớn để bật lửa rồi đốt cháy Hòa thượng Thích Quảng Đức trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn toàn” nhằm
bênh vực cho tuyên bố “nướng sư “ của bà Ngô Đình Nhu.
Lập luận đó quay quanh chuyện ông
Nguyễn Công Hoan đã chích thuốc “an thần Trenxinne
và Trancanin” vào người HT Thích Quảng Đức
từ nhiều ngày trước. Và đến ngày 11-6-1963 thì ông Hoan dìu một HT Quảng Đức đã
thành “một kẻ vô hồn” ra ngồi tại ngã
tư đường để ông ấy tưới xăng lên đầu Ngài và tự tay châm lữa đốt Ngài.
Do đó, đây không phải là một vụ tự thiêu mà là một vụ “nướng sư” như bà Ngô Đính Nhu đã tuyên bố.
Thật vậy, kèm theo Video “TỰ
THIÊU ?” nầy là trích đoạn sau đây:
“Uploaded
by VIETNAMSAIGON75 on May 3, 2010
Việt cộng NGUYỄN CÔNG HOAN ĐÃ THIÊU SỐNG
THÍCH QUẢNG ĐỨC
http://vietnamsaigon.multiply.com/journal/item/489/489
Vào lúc 7 giờ sáng ngày 11-6-1963, (nhằm ngày 20-4 âm lịch)
Những kẻ sát nhân này là Trần Quang Thuận đã chở Hòa thượng
Thích Quảng Đức đến ngã tư Lê Văn Duyệt Phan Đình Phùng, Sài Gòn,cùng Nguyễn Công Hoan VC nằm vùng (Dân biểu
của Việt Nam Cộng Hòa ) Sau ngày mất nước Nguyễn công Hoan cũng tiếp tục là dân
biểu tỉnh Phú Khánh của bọn Việt-gian-cộng-sản.
Nguyễn
Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là người đồng hương với Hòa thượng Thích Quảng Đức.
Theo những tài liệu cũ, thì suốt trong
thời gian cuối đời của Hòa thượng Thích Quảng Đức, sau khi đã «được» VC Phật giáo Ấn Quang đã ra lệnh phải bức tử,
Nguyễn Công Hoan luôn luôn ở bên cạnh Hòa thượng Thích Quảng Đức, để « theo dõi
sức khỏe »
Nhưng, thực ra, là mỗi ngày Nguyễn Công
Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đóng vai là một y tá đã chích cho Hòa thượng Thích Quảng
Đức bằng « thuốc trợ tim » (Thuốc an thần Trenxinne và Trancanin ) đã khiến cho
Hòa thượng Thích Quảng Đức từ từ biến thành một kẻ vô hồn. Bởi vậy, nên mọi
người đều thấy khi được dìu đến nơi để phải chịu đốt, thì Hòa thượng Thích
Quảng Đức đã hoàn toàn hôn mê, bất động và ngồi như một bức tượng đá trong ngọn
«Lửa Từ Bi »của Việt cộng.
Và, chính Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn
Thạnh) là tên giả sư đã tự tay cầm một can xăng để tưới từ trên vai xuống người
của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Rồi cũng
chính Nguyễn Công Hoan đã dùng chiếc Zipo loại lớn để bật lửa rồi đốt cháy Hòa
thượng Thích Quảng Đức trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn toàn, .....
Gần nửa thế kỷ, từ ngày Thich Quảng Đức BỊ
THIÊU SỐNG cho đến hôm nay , không một ai đặt câu hỏi rằng người tưới xăng
vào Thích Quảng Đức và bật hộp quẹt đốt cháy là ai?
Thông thường bản năng tồn tại của con
người la phản kháng trước sự đau đớn, cháy, nóng nhưng ở đoạn phim nầy thì ngược lại là TQĐ hoàn toàn đã chết trước khi bị đốt.
Người
Phật Tử và những vị sư cao tăng nhất cũng chưa bao giờ điều tra về việc nầy và
chuyện dễ nhất là cứ đổ tội trên đầu hai anh em TT Diệm cho xong,vì dù sao họ
cũng đã chết rồi.
Nhìn lại lịch sử sẽ thấy rằng :Bao lâu mà
người Phật Giáo không dám nhìn vào sự thật của lịch sử thì bấy lâu Việt cộng sẽ
thao túng tất cả các tôn giáo mà chẳng riêng gì Phật Giáo. Vì Việt cộng là kẻ
chủ mưu những việc thiêu sống các sư, thì tất nhiên chúng sẽ không bao giờ để
xảy ra một Thich Quảng Đức thứ hai.
Biến Động Miền Trung:
http://vietnamsaigon.multiply.com/video/item/69/69
[Nguồn: http://www.youtube.com/watch?v=RPBsPrJ72Wo&feature=related
]
■ Phản bác lời vu khống: Như
ta đã thấy ở các phần trên, vụ tự thiêu của Ngài Thích Quảng Đức (một cao điểm
của phong trào Phật giáo vận động chống chánh sách kỳ thị tôn giáo, dẫn đến sự
tham gia và liên kết với các lực lượng quần chúng khác tại miền Nam chống chính
quyền Diệm, và đánh động được sự ủng hộ của dư luận thế giới, kể cả Vatican) đã
xãy ra giữa thanh thiên bạch nhật, được những nhân chứng trong và ngoài nước
ghi lại rõ ràng như thế. Vậy mà những kẻ hoài Ngô, nuôi hận thù, vẫn cố gắng bóp
méo sự thật về vụ tự thiêu cho bằng được.
Bóp méo, mà bóp méo một cách trắng
trợn, vì nếu người tẩm xăng không
phải là ông Nguyễn Công Hoan mà là ông Huỳnh Văn Hải, nếu người bật hộp
quẹt không phải là ông Nguyễn Công
Hoan mà chính HT Thích Quảng Đức tự bật
quẹt cho lữa phực cháy, thì toàn bộ cuốn Video “TƯ THIÊU ?” nầy trở thành vô
giá trị. Hoặc chỉ có giá trị như một lời vu khống gian xảo !
Hai điểm vu khống của họ đã bị những
nhân chứng và dữ kiện phủ bác như sau:
1- Về lời
vu khống cho rằng Hoà thượng Thích Quảng Đức bị chích thuốc mê trở thành kẻ vô hồn
và bị dìu ra ngồi chịu đốt, ta thấy Hòa thượng đã có ý định tự thiêu từ đầu, xuất
phát từ những cảm nhận cá nhân của Ngài trước sự tàn ác của chính quyền Diệm và
trước vận mệnh nghiêng ngữa của Phật giáo Việt Nam. Ngài đã đơn phương và tĩnh táo lấy quyết định tự
thiêu qua lá thư thỉnh cầu (từ hơn 2 tuần trước khi tự thiêu, ngày 27/5/1963)
và thư tuyệt mệnh (ngày 4/6/1963), do đó là một quyết định có tính toán trước
(premeditated decision). Hơn thế nữa, ngay đến phút chót, qua tấm ảnh T1 (mục 3.3.1) của ông Nguyễn Văn
Thông và ảnh số (2) (mục 3.4) của Malcolm Browne, ta thấy Ngài, ngồi một mình vì Đại đức Chơn Ngữ đã bỏ đi,
vẫn tỉnh táo để tự mình lần đầu bật hộp quẹt không cháy, thì lần thứ nhì
quẹt diêm thắp cho lữa bùng cháy lên.
2- Về lời vu khống rằng ông Nguyễn Công
Hoan là người “đóng vai ý tá”, trước đó nhiều ngày theo sát chích “thuốc trợ
tim” đầu độc Ngài, và ngày 11/6/1963 đã tưới xăng lên mình Ngài rồi dùng hộp quẹt Zippo bật lữa đốt cháy Ngài thì Hồi ký của TT
Thích Đức Nghiệp, hai tấm ảnh T1 của
ông Thông và số (2) của ông Browne, và
nhất là bài viết của ông Huỳnh Văn Hải trên báo Chấn Hưng vào năm 1985, đã xác định chính ông Huỳnh Văn Hải (trước
khi xuất tu là Đại Đức Thích Chơn Ngữ) là người đã tưới xăng nhưng không phải là người bật lữa trong cuộc
tự thiêu.
Riêng về ông
Nguyễn Công Hoan, chúng tôi chỉ được biết ông gốc Phú Yên sinh năm 1944,
tức là một thanh niên chỉ mới 19 tuổi vào năm 1963 thì trông không
thể cao lớn và già dặn như ĐĐ Chơn Ngữ khoảng 30 tuổi trong tấm hình được
(Việt Cọng cũng không “dại” gì giao cho một “cán bộ” mới 19 tuổi thi hành một “điệp
vụ” quan trọng như thế). Ông là học sinh lớp toán của cựu Hải quân Trung tá Trần
Văn Sơn tại trường Trung học Võ Tánh ở Nha Trang, đã đắc cử làm Dân biểu thời Đệ
nhị Cọng hoà (Phóng ảnh Công báo VNCH được lưu trữ tại Thư viện Quốc hội Mỹ ở
Washington DC). Sau 1975, ông từng là Đại biểu Quốc hội trong nước, nhưng gần
hai năm sau, tháng 3 năm 1977, ông vượt biên qua Nhật rồi được chính phủ Mỹ mời
qua điều trần tại Quốc hội về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Sau đó,
ông được hưởng quy chế tị nạn chính trị để ở lại Mỹ luôn. (Theo ông Trần Văn Sơn,
tức nhà bình luận chính trị Trần Bình Nam:
http://www.tranbinhnam.com/story/Toi_Day_Hoc_Edited.html
).
Sau khoảng hai,
ba năm đầu đi thuyết trình về vi phạm nhân quyền của chính quyền Việt Nam trong
cộng đồng tị nạn tại Mỹ, từ đó đến nay đã hơn 30 năm, không thấy ông xuất
hiện hoạt động trong sinh hoạt cộng đồng người Việt nữa.
Như vậy, khi
so sánh miền gốc quê hương (Huế/Phú Yên)
, vóc dáng vào năm 1963 (lớn/nhỏ),
tuổi tác vào năm 1963 (30/19), nghề
nghiệp (Tăng sĩ Giáo sư/Dân biểu Quốc
hội), học vị trước 1975 (Tiến sĩ ở
Pháp / Cử nhân trong nước), ngày vượt biên (1981/1977) và quốc gia đến sau khi vượt biên (Mỹ/Nhật), thì rõ ràng ông Huỳnh Văn Hải (tức ĐĐ Chơn Ngữ) và ông
Nguyễn Công Hoan là hai người hoàn toàn
khác nhau. Và vì nhiều người (kể cả công an mật vụ của Diệm) biết ông Huỳnh
Văn Hải là người đã tưới xăng lên mình Ngài Quảng Đức năm 1963, rồi chính ông Hải cũng đã công khai kể lại động
thái đó trên báo, thì ông Nguyễn Công Hoan chắc chắn không phải và không thể là người tưới xăng lên mình HT Quảng Đức được.
Cái Video “TỰ
THIÊU ?” và những luận điệu nhập nhằng theo sau đó, chỉ là một sự vu khống trắng
trợn mà thôi !
Người đổ xăng trong ảnh có mang vóc dáng và
ngoại diện của thanh niên 19 tuổi “Nguyễn Công Hoan” như video “Tự Thiêu?” vu
khống không ? [Ảnh (1) toàn cảnh của
Malcolm Browne, Sài Gòn, 11-6-1963 – thu nhỏ và enhanced của tác giả bài viêt nầy]
Những kẻ ngụy tạo ra “kịch bản”
giã mạo đã không ngờ, vì có lẽ không biết đến, hai yếu tố: Bức ảnh số (2) của Malcolm Browne và bài ký tự sự của ông Huỳnh Văn Hải viết năm 1985 kể lại cuộc tự thiêu
mà chính ông đóng một vai trò quan trọng trong đó. Vì không biết nên những lời
vu khống bất lương và vô bằng chứng của họ không những trở nên vô giá trị mà còn
tố cáo hành động gian trá của họ cho mọi người đều biết. Biết gì ? Biết rằng điều
răn “Ngươi không được làm chứng gian hại
người” của đạo Chúa, đối với nhóm Cần lao Công giáo hoài Ngô, chỉ là mồm mép
cho vui mà thôi, cứ “chứng gian hại người”
nhiều vào rồi xưng tội với Cha là … xong ngay !
6- KẾT LUẬN
Đã gần 50 năm rồi mà cái chết của
Hoà thượng Thích Quảng Đức vẫn làm cho những kẻ tội độ với Dân tộc phải run sợ nên tìm cách xuyên tạc vu khống.
Tuy nhiên, vụ tự thiêu của Ngài Quảng Đức chỉ là một trường hợp tiêu biểu trong
toàn bộ chiến dịch chụp mũ và phỉ báng Phật giáo Việt Nam, do đó, bài viết nầy
xin được đóng lại với một câu hỏi lớn hơn: Tại sao lại có cả một chiến dịch “đánh
phá” Phong trào Phật giáo 1963 nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung ?
Câu trả lời ngắn là vì con chiên
Ngô Đình Diệm đã để lại lời nguyền rất phù hợp với Kinh Thánh rằng “Tôi chết thì trả thù cho tôi”, và vì con
chiên khác là bà Ngô Đình Nhu, người mà hết chồng đến con, hết cha đến mẹ, 4 người
thân yêu nhất lại đều bị chết thảm tử theo đúng “nhiệm ý Thiên Chúa” hay luật báo ứng nhân quả, thì tuyên bố với Mỹ
rằng các cuộc tự thiêu của các nhà tu hành vị Pháp vong thân chỉ là những “màn nướng sư” (monk barbecue show).
Nhưng thật ra, câu trả lời nằm ở
kích thước cao hơn: Vì Phật giáo là phên dậu văn hóa của quốc gia, là kẻ đồng hành
sắt son của dân tộc, nên phải đi tìm câu trả lời ở tầng lịch sử, văn hóa và chính
trị. Từ đó, chỉ thế lực nào muốn thay thế văn hóa nước ta bằng một nền văn hóa nô dịch thần quyền; chỉ thế lực nào muốn
dân tộc ta phục vụ cho quyền lợi ngoại
bang, chỉ những thế lực có truyền thống làm Việt gian tay sai cho giặc ngoại
xâm như thế mới “đánh phá” Phật giáo Việt Nam.
Trong năm 2011, trên Internet có
luân lưu một bảng “10 Tuyên bố của người
Công giáo” thật rõ ràng và rất thuyết phục để điểm mặt lực lượng đánh phá
Phật giáo đó. Nên xin copy/paste lại để kết bài:
“10
TUYÊN BỐ CỦA NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐÃ ĐI
VÀO LỊCH SỬ VIỆT NAM
1- Cố đạo Alexandre de Rhodes: “Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay
dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra,
có ngã với thì đã tỏ.” (Sách “Phép giảng Tám ngày”, Ngày thứ Bốn: Những đạo Vạy – Roma, 1651)
2- Giáo
hoàng John Paul II: “Phật giáo đại thể là một hệ thống vô thần”
(Buddhism is in large measure an
“atheistic” system).- Crossing the Threshold of Hope, 1994
3- Giáo
hoàng Benedict XVI (khi còn
là Hồng y Ratzinger): “Phật giáo là một
loại tâm linh tự dâm” (Buddhism was an autoerotic spirituality),
Feb. 1999 – “Phật giáo sẽ thay thế chủ
nghĩa Mácxít như là kẻ thù lớn nhất của Giáo hội kể từ năm 2000” (Buddhism would replace Marxism as the
church's biggest foe by 2000), March 1997.
4- Phúc
trình của Đô đốc thực dân Pháp Page:
“Không có giáo dân Việt Nam thì nước
Pháp như con cua không có càng”, 1859 (Sau khi cha Trần Lục dẫn 5000 giáo
dân Việt Nam giúp quân thực dân Pháp đánh chiếm chiến lũy Ba Đình của anh hùng
Đinh Công Tráng), Đạo Thiên Chúa và Chủ
nghĩa Thực dân tại Việt Nam, Cao Huy Thuần..
5- “Đức
cha Nguyễn Bá Tòng đọc bài
diễn văn tỏ lòng cám ơn chính phủ (Pháp), tỏ
lòng trung thành con dân Việt-Nam đối với Mẫu Quốc.” Trong Autour
des Fêtes du 3 Décembre 1940 à Phát Diệm (trang 33 đến 41)
- Trích lại từ “Hội hè Đình đám”, Toan Ánh, 1969, Sài Gòn
6- Đức
cha Phêrô Máctino Ngô Đình Thục:
“Chúng con hết lòng thành kính hiến dâng Giáo Hội và tổ quốc Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội” - Diển văn tại Tiểu Vương cung Thánh đường La Vang, Quảng Trị,
1960. Hơn 90% người Việt không theo
đạo Chúa có cho phép ông Ngô Đình Thục, dù là anh của tổng thống Diệm, dâng Tổ quốc của mình cho một người đàn bà
Do Thái xa lạ không ? Việt Nam
trở thành toàn tòng Công giáo lúc nào
mà ông muốn dâng tổ quốc cho ai thì dâng ?
7- Bà
Trần Lệ Xuân, đạo theo, vợ của Cố vấn
Ngô Đình Nhu, nói về vụ tự thiêu của Hoà thương Thích Quảng Đức: “Hãy để chúng cháy tiêu và chúng ta sẽ vỗ
tay” (Let them burn and we’ll clap
our hands – Our Vietnam the War
1954-1975, Langguth A.J., 2000, trang 216), và đó chỉ là “món đồ nướng” (Barbecue) mà “ nếu Phật tử có thiếu xăng và hộp quẹt thì tôi sẽ cho" (New York Times, 25-8-1963, trang E1).
8- Linh
mục Tổng Chỉ huy Tự vệ Giáo khu Phát Diệm Hoàng
Quỳnh: “Thà mất Nước, không thà
mất Chúa”, Nhật báo Hòa Bình, tường
thuật lại lời tuyên bố trong cuộc biểu tình của giáo dân tại cổng Bộ Tổng Tham
mưu, Sài Gòn 1964.
9- Trí
thức Công giáo chủ trương “Liên tôn” để chống Cọng Chu Tất Tiến: vu khống rằng “Phật giáo Việt Nam
giết hại hơn 100 nghìn người cùng máu đỏ da vàng chỉ vì họ theo đạo Ca Tô”,
“Đòn khiêu khích tôn giáo của bọn tay sai
Cộng sản”, phổ biến trên các diễn đàn Internet, California, 12/2010.
10- Trí thức
Công giáo Vũ Linh Châu muốn
chạy tội tay sai theo giặc của Công giáo VN nên đề nghị Phật tử cũng nên cảm ơn
Thực dân Pháp: “Như vậy, phải chăng việc
Nguyễn Ánh giao Hoàng Tử Cảnh cho Giám Mục Bá Đa Lộc để cầu viện nước Pháp là
một sự lựa chọn …sáng suốt. Một hành
động sinh tử đối với Đạo Phật tại nước ta. Nếu Nguyễn Ánh, thay vì móc nối
với Bá Đa Lộc, lại giao Hoàng Tử Cảnh cho một giáo sĩ …Tây Ban Nha, thì Việt
Nam đã trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha và dân Việt Nam cũng đã toàn tòng
100% Công giáo giống như Philippines và các quốc gia tại Trung và Nam Mỹ châu
rồi. Như vậy, phải
chăng các tín đồ Phật Giáo Việt Nam
cũng nên nói lời cám ơn Lịch Sử và cám ơn thực dân Pháp? Phải chăng
Phật Giáo Việt Nam cũng nên cám ơn Vua Gia Long, cám ơn Hoàng Tử Cảnh và cám ơn cả Giám Mục Bá Đa Lộc nữa.” (Diễn đàn Internet Quốc
hận 2011). Đây là loại ngụy biện đểu cáng ba
xu, cảm ơn người đã rước con rắn độc, thay vì rước con chó điên, vào nhà. “Rắn
độc” Pháp hay “Chó Điên” Tây Ban Nha thì cũng thế ! Chỉ có đầu óc nô lệ kiểu “con chiên con cừu”, kiểu “tôi tớ hèn mọn” khấu đầu trước Cha Cố thực dân đang cướp
nước mình để cảm ơn, mới có lý luận phản quốc như thế !
(Tài liệu tổng hợp từ: http://virtualarchivist.wordpress.com/
và http://my.opera.com/honganthienchua/archive/
và http://vn.360plus.yahoo.com/vanphongtran79/article?mid=740&fid=-1
)”
Pháp Lạc và Nguyễn Kha
Tháng
11/2011
Tác giả gửi trực tiếp cho TVHS