Đồ Bàn được hình thành đâu khoảng thế kỷ thứ 10 sau Tây lịch kỷ nguyên
dưới triều Indravarman II. Người Chiêm dùng làm kinh đô từ năm 988.
Đời Lý, năm 1044, vua Lý Thái Tông thân chinh, giết vua là Sạ Đẩu rồi
tiến quân vào thành bắt Vương Phi Mỵ Ê cùng các cung nữ biết múa hát
điệu Tây Thiên đem về Bắc. Đến phủ Lỵ Nhân(tỉnh Năm Định) vương phi trầm
mình. Đời sau có thơ cảm thán:
Thuyền rồng không dựa, dựa thuyền chài
Gắn bó vì chưng trót một hai
Tiết nghĩa mảnh chiên trời ấm lạnh
Cương thường giọt lệ nước đầy vơi
Chứng minh đã có mười phương Phật
Sống thác cùng nhau một giống Hời
Sử sách ngàn năm ghi chép đó
Thương ai mà lại thẹn cho ai
(Hoàng Cao Khải)
Năm 1069, Vua Lý Thánh Tông thân chinh, bắt được vua Chiêm là Chế Củ,
Chế Củ dâng đất 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc mạng.
Qua đời Trần, năm 1301 Thượng Hoàng Nhân Tôn sang chơi Chiêm Thành, ước
gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. 6 năm sau (1306) vua
Anh Tông mới đưa nàng về Chiêm sau khi nhận 2 châu Ô, Lý làm sính lễ.
Nàng công chúa nước Việt về làm dâu Chiêm Thành:
Chiều Chiều mây kéo Ải Vân
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân em buồn
Tuy nhiên mối duyên Chiêm Việt không kéo dài được lâu. Chưa đầy năm Chế
Mân chết và tướng Trần Khắc Chung được phái cử vào lấy cớ điếu tang rồi
tìm cách đưa nàng về Việt.
Tiếp sau nữa, giữa Chiêm Việt thường xảy chiến tranh, đánh phá lẫn nhau.
Nước Việt đem quân vào tận Trà Bàn, vua Trần Duệ Tông mạng vong, đến
vua Chiêm Chế Bồng Nga cũng kéo quân ra tận Thăng Long đánh Việt, rốt
cuộc bỏ mạng.
Đời Lê, năm 1470, vua Lê Thánh Tông cất quân đánh Trà Bàn, bắt vua là
Trà Toàn và sát nhập Chiêm Quốc và Việt. Phủ Hoài Nhơn có tên từ đây.
Khi Nguyễn Hoàng tổng trấn Thuận Quảng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy
Nhơn (1602). Thái Tông Nguyễn Phước Tần đổi làm Quy Ninh phủ(16?). Thế
Tông Nguyễn Phước Khoát phục lại tên cũ là Quy Nhơn(1742).
Đời Duệ Tông Phước Thuần, năm 1773 Nguyễn Tây Sơn chiếm cứ, củng cố
thêm...Nơi đây anh em Tây Sơn vì xảy ra chuyện bất hòa đến nỗi Nguyễn
Huệ kéo quân vây hãm: Nguyễn Nhạc đã phải than thở: "Sao nỡ nồi da nấu
thịt".
Hoàng đế Thành dưới triều Thái Đức Nguyễn Nhạc. Thời kỳ lưỡng Nguyễn
tranh hùng, năm Kỷ Mùi(1799) Chúa Nguyễn Phúc Ánh tức sau này là vua Gia
Long đánh lấy thành đổi tên làm Bình Định thành sau hậu quân Võ Tánh và
lễ bộ Ngô Tùng Châu trấn giữ.
Năm sau (1800) Tây Sơn do tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân
vây thành. Trong hơn một năm vậy chặt, trong thành hết cả lương thực,
hai ông Võ Tánh và Ngô Tùng Châu đều tuẫn tiết: ông Châu dùng thuốc độc,
còn ông Tánh tự thiêu. Ấy là vào tháng 5 năm Tân Dậu 1801. Cái chết bi
tráng của hai ông bậc quốc sĩ văn chương có tác phẩm truyền đời:
Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên
Cảm thương quan hậu thủ thiền ba năm
Ba năm quan hậu thủ thiền
Thành cô lửa dậy tôi hiền gởi thân.
(Ca Dao)
...
Há rằng ngại một phen thỉ thạch, giải trùng vì mà tìm tới quân vương
Bởi rằng thương muôn mạng tì hưu, thà nhất tử để cho toàn tướng sĩ.
Sửa mũ áo lạy về bắc khuyết, ngọn quang minh un mát tấm trung can
Chỉ non Tây thề với cô thành, chén tân khổ nhắp ngon mùi chánh khí
Tiếng hiệu lệnh mơ màng trước gió, ân tín xưa người bộ khúc thương tâm,
Bóng tinh trung thấp thoáng dưới đèn, phong nghi cũ kẻ liêu bằng sái lệ...
(Đặng Đức Siêu)
Kịp khi nghe tin Phú Xuân thất thủ, vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc tháng 7
năm Nhâm Tuất 1802, tướng Trần Quang Diệu bỏ thành Quy Nhơn, lên đường
thượng đạo ra Bắc. Bình Định thành lại về tay chúa Nguyễn.
Từ ấy đến giờ, suýt soát đã 200 năm.
Ôi! Cùng một nơi mà từng là kinh đô hai nước, cuốn theo với nó bao nhiêu cuộc biến đổi đau tang thương.
Ta từ thuở trẻ đến giờ đến nơi đây kể đã ba lần, mỗi lần cách nhau tính
ra trên dưới vài mươi năm. Và lần nào cũng nhận ra cảnh vật tiêu sơ thêm
nhiều ít, khiến lòng xúc cảm bồi hồi bèn trộm mượn đôi vần lưu niệm
Trà Bàn Hoàng đế cô đô thành
Cựu tích duy tổn sổ đoạn khuynh
Lầm thương cao khâu chiêm nhất vọng
Bồi hồi suy thán đối thương thanh.
Viếng Trà Bàn
Đô kỳ hai nước dấu còn đây
Dâu bể bao lần cuộc đổi thay
Tiên Tháp đồi cao ngơ ngẩn bóng
Song Trung miếu quạnh thẫn thờ cây
Mưa sa há quản lòng voi đấy
Nắng dãi nài chi dạ nghễ này
Thành quách ngàn năm trời man mác
Bùi ngùi dạ khách bước khôn nguôi.
VÂN ĐÌNH
(Lê Văn Đích)