Chuyện rằng, khi Thuyền sư Không Lộ dựng
nên chùa, dân chúng nơi đây không mấy mặn khói nhang, nên Đức Thánh Tổ
nổi giận. Trong một đêm mưa gió bão bùng, Đức Thánh đan không biết bao
nhiêu rọ tre, cho tất cả tượng Phật vào đó, rồi ngài ngã nón làm
thuyền vượt sông Hồng sang đất Thái Bình.
Đến giữa sông, ngài ngoảnh cổ lại và nói
một lời nguyền rằng sẽ không có vị sư nào đến ở ngôi chùa trên. Câu ấy
cứ tồn tại theo miệng nhân thế cho đến bây giờ, nó làm cho ngôi chùa
càng tăng thêm tính dã sử.
Thế nhưng có một sự thật kèm theo là sau
này, vị sư nào, chủ trì nào đến ở cũng sinh bệnh tật, có vị chết bất
đắc kỳ tử, có người sợ "lời nguyền" nên sớm bỏ đi. Cho đến bây giờ,
cũng chẳng sư nào ở ngôi chùa này, làm cho tích chuyện thêm phần kỳ bí.
Dòng họ 20 năm giữ bí mật của ngôi chùa lạ
Ngôi chùa bề thế đó, có độ tuổi đến vài
trăm năm, rêu phong và cổ kính nhất nhì miền Bắc, thế nhưng lại không
có bóng dáng của áo thâm. Chùa không có sư ở, có vẻ lạ ở trên đời ấy là
chùa Keo Hành Thiện, thuộc huyện Xuân Trường, Nam Định. Bây giờ, rất
nhiều người đến đây thăm quan, có cả các nhà khoa học trong và ngoài
nước, họ đến đây mong được lễ thánh thì ít mà tìm hiểu thực hư lời
nguyền huyền thoại thì nhiều hơn.
Trong ngôi chùa không sư ấy lại có một
người làm thủ từ đã trãi qua hơn 20 đời cha truyền con nối làm việc
không công để trông nom chùa, bây giờ công việc của ông lại thêm khâu
tiếp những vị khách du lịch hiếu kỳ.
Chúng tôi đến thăm chùa không sư vào tờ
mờ sáng, khi chưa có khách hành hương. Nhìn ngắm ngôi chùa trong sương
sớm, lại ngược thời gian nghe huyền thoại, chợt xao lòng. Ông Thủ từ từ
trong xóm nhỏ đi ra, từ tốn mở cánh cửa lim nặng nề. Một không gian
chùa qua 400 năm đang được "cách ly" với bên ngoài bỗng vỡ òa trong
chốc lát, tượng Phật, màu ngói rệu rã rêu phong như làm sửng sốt cho
những người lạ đến đây.
Như đoán biết thắc mắc của chúng tôi,
ông Thủ từ nói: "Kể từ khi ngôi chùa này có mặt trên doi đất hình con
cá chép này thì tổ tiên nhà ông là những Thủ từ di truyền từ đời này
qua đời khác, nhưng khi có việc làng, trùng tu hay lễ hội thì ông lại
bàn giao cho làng sử dụng. Lúc hội làng sắp mở, làng bắt đầu cắt cử đội
bảo vệ chùa, chọn ông chủ lễ phải là người "đức cao vọng trọng", chưa
có tì vết gì trong đời sống.
Thường người được chọn là bậc cao niên,
hai ông bà còn song toàn, phải thượng thọ, được ăn yến lão. Khi hội
làng vừa xong, lại bàn giao ngôi chùa này cho ông Thủ từ. Nên mọi lịch
sử, biến đổi của chùa đều do Thủ từ ghi chép lại trong cuốn "Hành thiện
xã chí".
Ông Thủ từ cho biết thêm: "Từ ngày tôi
lớn lên đã thế! Bố tôi kế nghiệp của ông tôi, ông tôi kế nghiệp của
cố... đã qua 20 đời nhà tôi làm nghề Thủ từ. Ngay khi sinh ra, truyền
thống gia đình phải được giao dự cặn kẽ về Phật giáo cũng như đạo đức,
nên trong làng, ai ai cũng kính trong họ nhà tôi. Và đến đời tôi, cũng
như các bậc tiền bối đi trước, phải ghi chép đầy đủ mọi cái diễn ra.
Nên cũng từ đó, ngôi chùa có bao nhiêu bí mật đều nằm trong cuốn "Hành
thiện xã chí" cả, nhưng số người được tiếp cận tính đến nay thì rất
hiếm".
Gác chuông
Trong cuốn "Hành thiện xã chí" còn ghi,
cách đây mấy trăm năm, chùa đã từng có rất nhiều vị sư hành khất đến, ở
được một thời gian, thấy trong người khó ở, lại khăn gói ra từ bởi
nhiều điều không ngộ ra giáo lý, trong người có một cái gì đó rối rắm
như tờ vò mà ra đi không giải thích được.
Còn qua ông Thủ từ cho biết: "Cách đây
vài năm, có một vị sư khăn gói từ Thái Bình lên, quyết tâm xin ở lại tu
đạo và cũng là nghiên cứu, hóa giải lời nguyền nhưng rồi cũng phải ra
đi. Lúc đó, ông bảo tôi là bị nhức đầu, suy nhược thần kinh, không đủ
khả năng để tịnh cái tam, phải đi mới yên ổn"(?).
Bí mật của chùa không sư
Trong quá trính tìm hiểu về chùa không
sư, chúng tôi đã tiếp xúc nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tư liệu, sách báo
về ngôi chùa này. Trong cuốn "Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành
thiền uyển ngữ lục yếu tập" có ghi, chùa Hành Thiện do thánh Không Lộ
Thiền sư (1016- 1094) xây cất mà nên.
Thiền sư Không Lộ xuất thân trong một
gia đình họ Dương, làm ngề ngư phủ, lớn lên ông xuất gia theo thiền sư
Lôi Hà Trạch. Truyền thuyết còn kể lại rằng, khi viên tịch, ông hóa
thành khúc gỗ trầm hương, lấy áo đắp lên khúc gỗ trầm hương biến thành
tượng.
Thánh tượng này còn được lưu giữ trong
hậu cung, quanh năm khóa kín cửa, không cho ai được thấy dung nhan của
ngài. Cứ phải qua 12 năm, một chủ lễ và 4 viên chấp sự được cử để làm
lễ trang hoàng tượng thánh. Nên rất nhiều du khách đến chùa muốn xem
"mặt ngài" cũng phải đợi 12 năm mới có dịp (?).
Nghiên cứu thêm về lịch sử của chùa:
Chùa Hành Thiện mang dấu tích của chùa Keo ở làng Dũng Nhân, Giao Thủy,
Nam Định. Vì năm 1061, Không Lộ Thiền sư dựng chùa Nghiêm Quang bên
hữu ngạn sông Hồng, theo thời gian, chùa bị nước làm cho sói mòn.
Đến 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi
tất cả các dấu tích của ngôi chùa. Dân làng Keo phải rời bỏ quê cha đất
tổ, một lần nữa vượt sông đến định cư ở phía Đông Bắc tả ngặn sông
Hồng (Về sau, dựng nên chùa Keo Thái Bình). Còn một phần xuống Xuân
Trường, Nam Định, dựng chùa Hành Thiện và tồn tại cho đến tận bây giờ.
Chùa Keo Hành Thiện
Tuy nhiên còn có biết bao nhiêu điều kỳ
bí mà du khách, người dân muốn biết về ngôi chùa không sư. Nhất là hiện
tượng vì sao ngôi chùa có quy mô lớn, lịch sử lâu đời, quang cảnh rất
rêu phong vậy mà lại không có sư sãi trú ngụ.
Chúng tôi cũng đã tìm hỏi khắp nơi, cố
gắng vén một chút về bức màn bí ẩn này, thế nhưng đến nay cũng chỉ biết
được về lịch sử ngôi chùa: Vì song hành cùng chùa Keo Thái Bình, chùa
Hành Thiện ít được người ta khai thác về mặt tâm linh cũng như truyền
giáo lý nhà phật, ấy vậy nên đến nay chỉ dùng vào hoạt động du lịch
nhiều hơn là truyền đạo.
Chùa là một trong hai ngôi chùa gắn với
tên tuổi của nhà sư Không Lộ. Ông có công truyền bá rộng rãi đạo Phật
trong dân gian. Khởi nguồn về mô hình của Chùa Hành Thiện được tính từ
hồi 1062, người ta di dân đến xây mô hình chùa ở làng Dũng Nhuệ - Giao
Thủy. Sau đó về đất Hành Thiện vào năm 1588, sang Thái Bình năm 1611.
Về mặt quy mô chùa Keo Thái Bình lớn hơn
chùa Keo Hành Thiện, bề thế hơn nhưng cấu trúc lại sao chép nhau hầu
như nguyên vẹn. Cả hai chùa đều dựng bằng gỗ lim, kết với nhau bằng
mộng tre, mộng vược và mang cấu trức thời Tiền Lê, thời kỳ Phật giáo
phát triển thịnh vượng nhất ở nước ta.
Còn về vấn đề sao các sư không sống được
ở chùa, trong một số sách, trong đó có cuốn "Hành Thiện xã chí" của
gia tộc Thủ từ cũng có đề cập đến: "Có thể, do không quen với thổ
nhưỡng, chướng khí... Mà cụ thể là cơ địa con người, nhà sư đạo cao
cũng là người, thì không hợp chất đất, nguồn nước... là phải, sinh ra
ốm đau, bệnh tật, ở lâu có sư bị "viên tịch". Như vậy, mới có chuyện
sinh ra các sư đến lưu trú, hành đạo, tu đạo trong chùa sẽ bị ốm, bệnh,
chết... rồi bỏ đi chăng? Về cơ sở lý thuyết này, đến nay vẫn chưa có
nhà khoa học, tổ chức nào nghiên cứu cụ thể, sát với thực tế, vẫn đề
"lời nguyền" trong truyền thuyết làm cho câu chuyện về "chùa không sư"
thêm phần huyền bí.
Dẫu chùa không sư, không vãi, không
tiếng mõ vang âm nhưng ngôi chùa vẫn tồn tại với thời gian. Du khách
đến đây vẫn tìm thấy những giá trị lịch sử văn hóa của một công trình
kiến trúc Phật giáo lâu đời.
Theo Thành Văn - NĐT