Nhà Hán "đoạt khống" đất đai nước ta
- Nếu nước ta thời Hùng Vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến
năm 43, nghĩa là giai đoạn “Bắc thuộc lần thứ nhất” không tồn tại? -
Tôi hỏi giáo sư Lê Mạnh Thát.
- Đúng vậy. Phải loại phần đó ra khỏi lịch sử. Chúng ta có đủ chứng cứ để làm như vậy.
- Nhưng sử sách vẫn còn ghi: năm 214 trước công nguyên, Tần Thủy
Hoàng đem quân đánh lấy đất Bách Việt, sau đó chia làm ba quận: Nam
Hải, Quế Lâm và Tượng Quận mà Tượng Quận là nước ta?
- Nam Hải, Quế Lâm ngày nay nằm trong hai tỉnh Quảng Đông và Quý
Châu Trung Quốc thì đã rõ rồi, nhưng Tượng Quận thì không phải. Một số
tài liệu Trung Quốc có chép một cách lầm lạc rằng nó là Nhật Nam (nước
ta) sau này, nhưng đối chiếu với những tài liệu tin cậy cũng của chính
Trung Quốc, từ rất sớm người ta đã biết Tượng Quận nằm giữa hai quận
Uất Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ không phải nước ta.
- Sử Trung Quốc cũng ghi rõ, năm 111 trước công nguyên, Hán Vũ đế đã
chiếm nước Nam Việt của Triệu Đà và đặt 9 quận: Nam Hải, Thương Ngô,
Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Châu Nhai và Đàm Nhĩ
thuộc Hán. Nếu cho đến năm 43 nước ta vẫn độc lập thì giải thích làm
sao việc nước ta gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nằm trong đất
nhà Hán trước đó?
- Đối chiếu với chính sử Trung Quốc ta đã thấy Triệu Đà chưa bao
giờ chiếm Tây Âu lạc cả và Hán Vũ đế cũng chỉ chiếm Nam Việt của Triệu
Đà. Rõ ràng là họ đã gom Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam vào đất Hán một
cách vô căn cứ. Việc này không có gì lạ, sử Trung Quốc còn chép rằng
năm 202 (trước CN) Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố của Hán Vũ đế lấy các
đất Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải của Triệu Đà phong cho Ngô Nhuế, nhưng
ba nơi đó là của Triệu Đà. "Đà chưa hàng, xa đoạt khống, lấy phong cho
Nhuế vậy". Đất chưa lấy được mà "đoạt khống" làm đất của mình, chuyện
đó là bình thường, không chỉ Lưu Bang mà trở thành thói quen cho các
triều đại về sau này nữa... Bởi vậy việc "đoạt khống" ba quận Giao Chỉ,
Cửu Chân và Nhật Nam của ta không có gì lạ. Việc "đoạt khống" này có ba
chứng cứ: Thứ nhất, Tiền Hán thơ ghi rõ rằng Thứ sử Giao Chỉ "đóng ở
Thương Ngô", nghĩa là quân Hán chưa bao giờ đặt chân tới Giao Chỉ. Thứ
hai, sử liệu Trung Quốc cũng cho thấy, việc đưa những người phạm tội đi
đày thời đó chỉ đưa tới Hợp Phố chứ không hề thấy đưa đi xa hơn, tuy
chưa phải là chứng cứ quyết định, nhưng cũng biểu thị rằng biên cương
cực nam của nhà Hán chưa qua khỏi Hợp Phố, là vùng giáp giới với nước
ta. Chứng cứ thứ ba là việc sử liệu Trung Quốc ghi "Phiên Ngung là một
đô hội", đây là chi tiết khá khác thường, bởi Tiền Hán thơ đưa ra con số
thống kê nhân khẩu cho thấy quận Nam Hải có 6 huyện chỉ vỏn vẹn có
94.253 dân, bình quân mỗi huyện, trong đó có Phiên Ngung, có trên dưới
15 ngàn dân, trong khi số dân Giao Chỉ 10 huyện số dân lên tới 764.237
người, bình quân mỗi huyện trên 75 ngàn dân, gần bằng số dân của cả Nam
Hải. Đó là chưa kể Cửu Chân và Nhật Nam, dân số cộng lại cũng có trên
200.000 người. Thế mà lại nói "Phiên Ngung là một đô hội". Điều không
hợp lý này chỉ có thể được giải thích là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và
Nhật Nam trong thực tế không thuộc đất Hán. Có thể hỏi tại sao ba quận
này không phải của nhà Hán mà nhà Hán lại có số liệu về "hộ khẩu", câu
trả lời cũng thật đơn giản: Đọc trong Tiền Hán thơ, ta có thể bắt gặp
một loạt tên các quốc gia độc lập ở Trung Á, chưa bao giờ "thuộc Hán",
nhưng vẫn có số liệu hộ khẩu như thường. Cho nên, nhà Hán có số liệu về
hộ khẩu không nhất thiết nó thuộc nhà Hán.
Dù là Âu Lạc, Tây Âu, Tây Âu Lạc, Tây Vu, Việt Thường Thị hay Giao
Chỉ - Cửu Chân - Nhật Nam, cũng đều là những tên gọi khác nhau của nước
ta. Cần biết, các triều đại phong kiến Trung Quốc không bao giờ muốn
nước ta độc lập cả, ngay cả khi nước ta có quốc hiệu đàng hoàng như Vạn
Xuân (Lý Nam Đế), Đại Cồ Việt (Đinh Tiên Hoàng) hay Đại Việt
(Lý-Trần), sử sách Trung Quốc vẫn tiếp tục dùng những cái tên Giao Chỉ, An Nam
để gọi một cách tùy tiện. Việc "đoạt khống" đất đai, theo giáo sư Lê
Mạnh Thát, là "nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành trướng" của họ.
Trao đổi với chúng tôi, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng chỉ riêng văn
minh trống đồng thôi mà chúng ta đã có chứng cứ rành rành. Với một nền
khoa học kỹ thuật phát triển rất cao thời đó như vậy, một nền kỹ thuật
không ai có thể chối cãi, thì không có lý gì mà chúng ta lại không có
một nền văn hóa - giáo dục tương ứng.
Nền văn hóa đó vẫn được bảo tồn. Trung Quốc có Thi Thơ Lễ Nhạc. "Nếu
nói Thi chúng ta có cùng chùm truyện trong Lục độ tập kinh, Cựu tạp
thí dụ kinh và bài Việt ca. Nếu nói Thơ chúng ta có truyền thuyết trăm
trứng. Nếu nói Lễ chúng ta có bộ Việt luật. Nếu nói Nhạc ta không chỉ
có bài Việt ca mà còn có trống đồng...". Nói thêm về văn học, ông
cho rằng "nền văn học thành văn của dân tộc ta không phải bắt đầu từ
Trần Nhân Tông và Nguyễn Trãi, hay Khuông Việt và Từ Đạo Hạnh... mà nó
đã bắt đầu từ thời Hùng Vương mà bằng chứng còn lại là bài Việt ca, cụm
chuyện thần thoại và cổ tích đầu tiên tìm thấy trong Lục độ tập kinh. Phân tích trong Lục độ tập kinh,
giáo sư Lê Mạnh Thát chỉ ra 5 truyện trong tập kinh này tương đương
với 5 truyện cổ tích do Nguyễn Đổng Chi tập hợp trong Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam, như vậy "chúng ta không còn bàn cãi một cách tùy tiện
không có cơ sở về nền văn học "dân gian" chung chung phi thời gian,
phi lịch sử".
Như vậy là từ thời Hùng Vương chúng ta đã có một nền văn hóa riêng,
tạo nên bản lĩnh dân tộc. Đó là nền tảng cho những cuộc đấu tranh
trường kỳ, khốc liệt bảo vệ đất nước, bảo vệ nòi giống. Dân tộc ta
không những không bị đồng hóa, mà nền văn hóa của dân tộc ta còn được
du nhập vào văn hóa Trung Quốc mà Lục độ tập kinh - không chỉ là kinh Phật mà còn là tác phẩm của "bậc thánh hiền" như chính người Trung Quốc gọi - là một trong những ví dụ.
Nhưng không chỉ có vậy. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, từ sau khi Mã Viện
đánh bại Hai Bà Trưng cho đến khi Chu Phù, Sỹ Nhiếp cai trị nước ta,
lịch sử cũng có nhiều vấn đề cần đặt lại. Và trong thời gian này xuất
hiện một nhân vật lớn là Mâu Tử, một người Việt Nam, với tác phẩm nổi
tiếng Lý hoặc Luận được lưu truyền trong nền văn hóa điển chương Trung Quốc, một bằng chứng hùng hồn về sự nổi trội của văn hóa Việt Nam
"Giả như người nước ta không ghi lại những sự việc của Lê Hoàn (hoàng
đế Đại Hành) và chúng ta phải nghiên cứu qua tư liệu của người Trung
Quốc, thì một đoán án đương nhiên phải xảy ra, đó là Lê Hoàn không xưng
đế xưng vương hay đặt quốc hiệu lập xã tắc gì hết, ngược lại chỉ là
một tiết độ sứ, một quan chức của nhà Tống" (thiền sư Lê Mạnh Thát).
Sỹ Nhiếp là ai?
Có thể có ai đó trong giới sử học "ý kiến ra ý kiến vào" về những
phát hiện của giáo sư Lê Mạnh Thát mà chúng tôi đang giới thiệu một
phần hết sức tóm lược. Mong rằng những người quan tâm có thể tìm đọc
các công trình của ông để trao đổi học thuật. Chúng tôi xin lưu ý, những
gì mà chúng tôi giới thiệu ở đây, giáo sư Lê Mạnh Thát đã công bố từ
cách đây trên dưới 40 năm, nay được in lại trong hai bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (tập 1) và Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 1), đều do NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006, ngoài sách Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta
mà chúng tôi đã dẫn. Trong những công trình này, mỗi một vấn đề đưa ra
ông đều dẫn kèm theo tất cả các tài liệu có liên quan bằng những ngôn
ngữ gốc. Những tài liệu đó được ông giới thiệu cụ thể, chỉ rõ số trang,
số tờ, nơi ấn hành hoặc lưu trữ, nếu ai nghi ngờ thì có thể tra tận
gốc, bằng tiếng Việt, chữ Hán cổ và chữ Trung Quốc hiện nay, cùng tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật, chữ Phạn cổ...
Ông dẫn việc nhà Tống với Lê Hoàn như trên để nói rằng những sử liệu
từ Trung Quốc là "không hoàn toàn đáng tin cậy", ví dụ như chính sử
Trung Quốc ghi nhiều thứ sử Giao Châu (nước ta) nhưng thực tế những
người đó chỉ được "phong khống" chứ chưa bao giờ bước chân qua nước ta.
Việc nghiên cứu lịch sử nước nhà phải sử dụng tất cả những tài liệu
của tổ tiên ta để lại, rồi đối chiếu với chính sử Trung Quốc để thẩm
định, xác minh tìm ra sự thật. Cho nên, mỗi một cuộc truy tìm, mỗi một
phát hiện được tài liệu của tổ tiên đều khiến cho lịch sử nước nhà trở
nên sáng rõ.
Ông bảo nói "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu" như lời bài hát của Trịnh
Công Sơn là cách nói đau buồn mà không chính xác. Cuộc đấu tranh của
dân tộc ta từ sau khi cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng thất bại chưa
bao giờ ngưng nghỉ. Bởi chưa đầy 60 năm sau, cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm
lần thứ nhất đã nổ ra vào năm 100, dẫn tới việc người anh hùng Khu Liên
lập khu tự do vào năm 138, làm hậu phương cho các cuộc khởi nghĩa về
sau, cho đến thời Chu Phù, Sỹ Nhiếp. Thực chất trong hơn 150 năm bị các
thái thú Trung Quốc đến đô hộ, chúng ta "mất nước chứ không mất hạnh",
nghĩa là dân tộc vẫn còn, nền văn hóa dân tộc được xây dựng từ thời
Hùng Vương vẫn được bảo tồn và phát triển. Sự quật cường của dân tộc
chính người Trung Quốc cũng phải thừa nhận: "Trưởng lại đặt ra, tuy có cũng như không".
Có một nhân vật lạ lùng trong lịch sử nước ta, đó là Sỹ Nhiếp. Cả sử
Trung Quốc và sử ta đều nói ông là thái thú Giao Chỉ (sau đổi thành
Giao Châu). Tuy là một "thái thú" đến cai trị, nhưng các sử gia Việt
Nam đều dành những lời lẽ mến mộ khi nói về Sỹ Nhiếp. Lê Văn Hưu viết: "Sỹ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến thịnh một thời". Ngô Sỹ Liên cũng vậy. Trần Trọng Kim thì viết: "Sỹ Nhiếp trị dân có phép tắc, và lại chăm sự dạy bảo dân cho nên lòng người cảm mộ công đức, mới gọi tên là Sỹ Vương". Khi nhân dân gọi Sỹ Nhiếp là "Sỹ Vương", tức là vua của mình, còn có lý do nào nữa không?
Phần trước chúng tôi có nêu sự "nổi giận" của giáo sư Lê Mạnh Thát khi trích lời Ngô Sỹ Liên "Nước ta hiểu thi thơ, tập Lễ Nhạc thành ra nước văn hiến, bắt đầu từ Sỹ Vương",
cần nói rõ là ông bất bình với việc cho rằng nước ta hiểu thi thơ, tập
Lễ Nhạc mới thành ra nước văn hiến, chứ hoàn toàn không xem thường Sỹ
Nhiếp. Cũng như Trần Trọng Kim viết: "Nhà làm sử thường cho nước ta có văn học là khởi đầu từ Sỹ Nhiếp. Cái ý kiến ấy có lẽ không phải" (Việt Nam sử lược).
Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong
thực tế chính quyền Sỹ Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu Phù
(khoảng 180), là "chính quyền Việt Nam độc lập". Sử Trung Quốc chép rõ
Chu Phù "vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia". Còn đối với Sỹ Nhiếp, sử Trung Quốc (Ngô chí) viết rằng: "(Sỹ Nhiếp) tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời". Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam thì đã "Việt Nam hóa", trở thành người Việt Nam rồi. Cũng theo Ngô chí: "Sỹ
phủ quân (Sỹ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về
chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường
vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân"; "Anh
em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn
lý, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo
cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy
mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng,
chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn". Từ tài liệu trên,
theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Sỹ Nhiếp dẫu được đào tạo trong khuôn mẫu
Trung Quốc, đã có những hành vi xa lạ với phong tục tập quán Trung
Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa. Việc Ngô chí so sánh Sỹ Nhiếp với
Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước ta thời bấy giờ độc lập tới mức
nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền
Hai Bà Trưng là chính quyền Chu Phù - Sỹ Nhiếp". Theo ông, dưới thời Sỹ
Nhiếp, nước ta đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. "Lúa Giao Chỉ mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần" (theo Kinh Dương dĩ nam dị vật chí). "Một năm tám lứa kén tằm đến từ Nhật Nam" (Văn tuyển 5 tờ 9b4). "Nhiếp
mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương, vải mỏng thường tới số
ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu ly, lông thú, đồi mồi, sừng tê,
ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào
không đưa đến" (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà Sỹ Nhiếp gửi đến Tôn Quyền).
Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sỹ Nhiếp chết (226), lúc
ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo
và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sỹ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta,
lúc đó "là một nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người
Việt". Con Sỹ Nhiếp là Sỹ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn Quyền, tuy
nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sỹ Huy bị bắt và bị giết, Tôn
Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai trị của
Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị
Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành
lại chính quyền.
Về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng đây là
cuộc "khởi nghĩa thành công". Ông viết: "Tôn Quyền sai Lục Dận làm An
nam hiệu úy và thương thảo với quân khởi nghĩa bằng ấn tín và tiền của.
Đây là lối đánh dẹp khá lạ kỳ, hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc đối
với nước ta. Và cuối cùng Lục Dận cũng có thể báo cáo là đã "dẹp yên được giặc Giao Chỉ" và được phong làm thứ sử Giao Châu. Nhưng châu trị của Giao Châu lần này không phải ở nước ta, mà phải ở Quảng Châu, vì nó ngó ra biển (lâm hải), như bài biểu của Hoa Thạch trong Ngô chí
tờ 10b3 đã ghi nhận. Nói cách khác, nước ta từ năm 248 tiếp tục là một
nước độc lập và Bà Triệu tiếp tục đứng đầu đất nước, cho đến khi Tôn
Hựu sai Đặng Tuân (Ngụy chí 4 tờ 27a3 viết là Đặng Cú) đến Giao
Chỉ vào năm 257, ra lịnh cho thái thú Giao Chỉ bắt dân đưa lên Kiến
Nghiệp làm lính. Và như Thiên Nam ngữ lục đã ghi nhận là Bà
Triệu đã bị tử trận trong một cuộc chiến đấu với chính Đặng Tuân sau
khi đã tiêu diệt Lục Dận (...). Những mô tả này (trong Thiên Nam ngữ lục) hoàn toàn phù hợp với tư liệu của Ngụy chí 4 tờ 27a2-27b5, đặc biệt là tờ chiếu năm Hàm Hi thứ nhất (264) của Tào Hoán..." (Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 385-386)...
Mỗi một di sản của tổ tiên đều phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ tiên đều phải được gìn giữ.
Một minh chứng văn hóa
Những phát hiện nói trên của giáo sư Lê Mạnh Thát cho phép dựng lại
lịch sử dân tộc trong thời kỳ nước nhà không có sử liệu, sử sách được
viết chủ yếu căn cứ theo các tài liệu của Trung Quốc. Việc khẳng định
chủ quyền của dân tộc thời trước Hai Bà Trưng, thời Sỹ Nhiếp và sau đó
nữa là có cơ sở. Những phát hiện về văn hóa, bắt đầu từ Khương Tăng Hội
với Lục độ tập kinh và Mâu Tử với Lý hoặc Luận, đặc biệt là sự kiện 6 lá thư đề cập dưới đây càng minh chứng cho điều đó.
Lý hoặc Luận của Mâu Tử là một tác phẩm nổi tiếng, được viết
vào cuối thế kỷ thứ II (198) và được lưu hành tại Trung Quốc bắt đầu
từ thế kỷ thứ V, có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Nó còn là "sách gối đầu
giường" của người Phật tử Viễn Đông, cụ thể là Trung Quốc và Nhật Bản.
Đến nửa đầu thế kỷ XX, một loạt những nghiên cứu của các học giả Trung
Quốc, Nhật Bản và Pháp được công bố về tác phẩm này, gây nên một cuộc
tranh biện sôi nổi và hào hứng, bắt đầu từ công trình của Lương Khải
Siêu, tiếp đó là của H.Maspéro, Tokiwa Daijo, P.Pelliot, Chu Thúc Ca,
Hồ Thích, Matsumoto Bunzaro, Dư Gia Tích và Fukui Kojun (dẫn theo Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1).
Ở Việt Nam, nó cũng được coi là cuốn sách lý luận được quan tâm từ hơn
1.000 năm trước, đặc biệt từ năm 1932 khi Trần Văn Giáp giới thiệu Mâu
Tử là "người đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Việt Nam", cuốn sách đó
được sự quan tâm rộng rãi của giới học giả và nhiều người dân. Trong
khi nghiên cứu Lục độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát đã phát
hiện những mối liên hệ thú vị và trên cơ sở một cuộc khảo sát hết sức
công phu, ông đã tìm ra bằng chứng khẳng định Mâu Tử là người Việt Nam
và Lý hoặc Luận chính là tác phẩm của Việt Nam truyền sang
Trung Quốc. Công trình nghiên cứu này của ông đã được công bố một phần
trước năm 1975 và công bố toàn bộ sau này (xem Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam, tập 1).
Theo giáo sư Lê Mạnh Thát: "Trong bối cảnh văn hóa thời Mâu Tử, Lý hoặc Luận
không phải viết để xiển dương Phật giáo, mà là một cuộc tổng kết cuộc
đấu tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương Bắc".
Phải có một bề dày văn hóa như thế nào mới có thể có được một bản lĩnh
văn hóa như vậy. Một bên thì áp đặt Thi Thư như chân lý, Trung Hoa là
trung tâm, một bên Mâu Tử đáp trả "Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất", "năm kinh chưa hẳn là lời của thánh hiền".
Tiếp cận tác phẩm của Mâu Tử, chúng ta còn thấy dân tộc ta đã bảo tồn
văn hóa của mình như thế nào, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của
Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo để phát triển nền văn hóa của mình như
thế nào và truyền bá văn hóa của mình ra nước ngoài ra sao.
Sáu lá thư và một vị vua
Một phát hiện cực kỳ quan trọng khác của giáo sư Lê Mạnh Thát là 6 lá thư nằm trong Đại tạng kinh
chữ Hán. Đó là 6 lá thư trao đổi giữa hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh
với một "sứ quân" của Giao Châu tên là Lý Miễu. Trước khi ông công bố 6
lá thư này, chưa có một tài liệu nào đề cập tới. Từ điểm gây tò mò đầu
tiên trong 6 lá thư là địa danh "Giao Châu", ông đã tiến hành một cuộc
truy tìm ngoạn mục. Trước hết là tìm nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố
lịch sử, tìm nguồn gốc Việt Nam về mặt điển cố thư tịch, kế đó là tìm
niên đại và tung tích tác giả 6 bức thư.
Khó khăn nhất là tìm ra tác giả của chúng. Ông bảo tung tích của
những người mang tên Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu ngày nay chúng ta
không biết một tí gì hết.
Ông "kiểm soát toàn bộ" những tư liệu lịch sử Trung Quốc và Phật giáo
Trung Quốc, cũng như tư liệu lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam,
cũng không tìm thấy những người có các cái tên ấy. Ông lục tìm trong Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Ngụy thư, Bắc sử, Nam sử và Tư
trị thông giám sử cũng như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư,
Việt sử tiêu án và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng không gặp một "sứ quân" (hoặc chức vụ tương đương) nào với cái tên Lý Miễu; lục tìm trong Cao tăng truyện và Tục cao tăng truyện cũng như Thiền Uyển tập anh, cũng không tìm thấy một pháp sư nào có tên Đạo Cao hay Pháp Minh. Chỉ duy nhất trong Toàn Tấn văn 157 tờ 15a12-2 có liệt ra tên một Thích Đạo Cao, nhưng kiểm tra bản mục lục của văn liệu này cũng như xuất xứ của tên ấy dẫn từ Cao tăng truyện 5 tờ 255b15-17 thì thấy là Thích Đạo Tung chứ không phải Đạo Cao, sự khác nhau đó là do Toàn Tấn văn khắc nhầm.
Ông mở rộng việc truy tìm sang các tài liệu Nhật Bản và Triều Tiên.
Trong khi khảo sát toàn bộ tài liệu liên quan của Nhật, ông đọc kỹ lại Nhật Bản quốc kiến tại thư mục lục
(là sách được Vũ Điền thiên hoàng cho viết nhằm ghi lại tất cả những
bộ sách Trung Quốc còn sót lại trong Thư viện hoàng gia sau vụ cháy năm
887), tìm thấy một dữ kiện lôi cuốn. Dưới mục thứ mười mang tên Tiểu học gia, liệt ra một bộ sách nhan đề "Tá âm, một quyển, Thích Đạo Cao soạn" và dưới mục Biệt tập lại ghi "Đạo Cao pháp sư tập, một quyển". Vấn đề là Đạo Cao tác giả của hai cuốn sách Tá âm và Đạo Cao pháp sư tập
này có phải là Đạo Cao pháp sư trong 6 lá thư hay không? Đối chiếu thì
thấy hai tác phẩm này chắc chắn không phải do người Nhật biên soạn mà
phải là từ Trung Quốc mang về, vì khảo sát toàn thể tài liệu Phật giáo
Nhật Bản ông không thấy tăng sĩ Nhật Bản nào mang tên Đạo Cao cả. Vấn
đề là họ mang về Nhật từ lúc nào. Một cuộc kiểm soát tiếp vẫn không cho
biết một tí gì cả, chỉ biết chắc chắn là nó phải được mang về trước
năm 887 để có thể ghi vào bản thư mục nói trên. Ông cũng kiểm soát
những bản thư tịch liệt kê những tư liệu liên quan tàng trữ ở các nước
Anh, Pháp, Liên Xô, cũng không tìm thấy gì hết.
Tuy nhiên, ở đây xuất hiện một vấn đề mới. Trước hết về cuốn Tá âm. Nó được liệt vào loại Tiểu học gia, mà căn cứ vào định nghĩa của Tùy thư kinh tịch chí, nó là loại sách ngôn ngữ. Cần nói thêm, một chú giải trong tài liệu Nhật Bản còn ghi "Kinh tịch chí của Tùy thư có ghi Tá âm tự một quyển, nhưng không ghi họ tên người viết". Ghi chú này đã được xác nhận từ tài liệu Trung Quốc và từ dẫn giải của các tài liệu Trung Quốc cũng như Nhật Bản, có thể coi Tá âm tự
là một tác phẩm khác nữa của Thích Đạo Cao. Như vậy là ít nhất Thích
Đạo Cao cũng có 3 tác phẩm được nhắc đến. Vấn đề đặt ra là tại sao
những tác phẩm đó được Nhật Bản đem về từ Trung Quốc mà Trung Quốc lại
không ghi một cách đàng hoàng trong các tài liệu chính thống của mình,
mà chỉ ghi một cách sơ sài khuyết danh trong Tùy thư? Tiếp tục
nghiên cứu và đối chiếu, ông xác định rằng sở dĩ như vậy là vì những
sách đó chắc chắn không phải tiếng Trung Quốc mà là tiếng nước ngoài.
Những khảo sát như vậy dẫn đến kết luận, Đạo Cao chắc chắn không phải
là người Trung Quốc, Nhật Bản hay Triều Tiên, trong khi người mang tên
đó là một trong hai tác giả các bức thư trao đổi với Lý Miễu, "sứ
quân" Giao Châu. Bởi vậy Đạo Cao chắc chắn là người Việt Nam. Và từ
nhân vật này, ông phát hiện một chứng cứ quan trọng khác về một cột mốc
phát triển ngôn ngữ dân tộc: Tá âm là một quyển sách ngữ học về quốc âm, còn Tá âm tự
là một cuốn tự điển về thứ tiếng quốc âm đó. Rất tiếc là chúng đã thất
lạc, nhưng chắc chắn là có những cuốn sách đó. Ông bảo trong sưu tập
Stein tàng trữ tại Bảo tàng viện Anh Quốc có một thủ bản mang ký hiệu
S.5731, mô tả một tài liệu giống như vậy, nhưng vì ông "chưa có trong
tay" thủ bản đó nên chưa thể khẳng định.
Chúng tôi dẫn chứng dài dòng đoạn trên, tuy rất sơ lược, để bạn đọc
phần nào thấy được cách làm việc cẩn trọng của giáo sư Lê Mạnh Thát.
Những khảo sát như vậy đã được tiến hành và dễ dàng tìm ra tông tích
Việt Nam của người thứ hai là Pháp Minh.
Đối với nhân vật Lý Miễu, nội dung 6 lá thư cho thấy Lý Miễu được gọi
là "sứ quân" và lời lẽ của nhị vị pháp sư trong 6 lá thư coi ông "ở
địa vị của một bậc thiên tử". Đối chiếu danh sách những chức danh tương
đương với "sứ quân" như "thái thú", "thứ sử" Trung Quốc cử sang thì
không thấy tên Lý Miễu. Toàn bộ sử sách Trung Quốc cũng như Việt Nam
đều không có tên Lý Miễu. Với một khảo sát văn liệu tương tự cùng những
phân tích chính trị, xã hội đến tận ngọn nguồn, ông kết luận Lý Miễu
chính là một vị vua của Việt Nam. Một nhân vật xưng vương xưng đế trên
một đất nước độc lập mà Trung Quốc không với tới thì sử sách Trung Quốc
không chép là không có gì lạ. Còn việc sử ta không chép cũng là đương
nhiên, vì không không có sử liệu. Ông ước đoán 6 lá thư đó được viết
vào những năm 435-440, nằm trong thời kỳ Nam Bắc triều (420-588) của
Trung Quốc. Niên đại của Lý Miễu nằm trong khoảng 390-470, của Đạo Cao
khoảng 365-455 và Pháp Minh khoảng 370-460. 6 lá thư chứa đựng những sử
liệu vô cùng quý giá cho việc nghiên cứu nghệ thuật, âm nhạc, văn học,
Phật giáo, chính trị và tư tưởng (bạn đọc quan tâm vấn đề này xin đọc Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, trang 427-582).
Xin tạm dừng loạt bài này ở đây. Thiền sư Lê Mạnh Thát đã thực hiện
một loạt các công trình nghiên cứu đồ sộ về lịch sử dân tộc và lịch sử
Phật giáo, về văn học, triết học... Riêng các công trình lịch sử văn
học của ông được tập hợp thành Tổng tập văn học Phật giáo
khoảng 50 tập (đã in 3 tập). Chúng tôi giới thiệu sơ lược một số trong
rất nhiều phát hiện lịch sử của thiền sư với mong muốn những người quan
tâm đến lịch sử nước nhà biết đến. Đối với các cơ quan quản lý ngành
lịch sử và những nhà sử học - những người đang nghiên cứu lịch sử,
chúng tôi thiết nghĩ nó có lợi chứ hoàn toàn không gây thiệt hại gì cho
việc nghiên cứu, vì nghiên cứu thì cần có những tài liệu mới do chính
mình hoặc do người khác phát hiện ra. Các cơ quan nghiên cứu lịch sử
hoặc các nhà sử học có thể xem xét, đánh giá, tranh biện, cái gì có tài
liệu chứng minh là không đúng thì nói là không đúng, cái gì cần tiếp
tục làm rõ thì cùng nhau tìm tòi làm rõ, nhưng cái gì thấy có cơ sở là
đúng rồi thì cần thừa nhận để đưa vào dòng chính thống. Tất cả đều nhằm
mục đích tìm ra sự thật để tôn vinh dân tộc chúng ta. Mỗi một di sản
của tổ tiên đều phải được truy tìm, cũng như mỗi một tấc đất của tổ
tiên đều phải được gìn giữ.
Theo Hoàng Hải Vân - TNO