Chùa
Tuyết Đậu được bao bọc bởi hàng loạt dãy núi xanh, tiếng suối reo, thác
đổ ngày đêm tranh nhau vang rền quanh chùa. Thắng cảnh trong núi Tuyết
Đậu được khen là: "Bốn phía núi xanh phủ kín chùa, núi núi quày đầu chầu
cổ sát; năm non khe suối bò quanh viện, suối suối cất tiếng ngợi Thiền
Tông".
Trong "Tuyết Đậu Tự Chí" nhà Thanh có
ghi: Đời nhà Tấn có một ni cô kết am tu hành trên đỉnh núi Thiên Trượng
Nham, hiệu là "Viện Bộc Bố". Đường Hội Xương Nguyên niên (841 CN), dời
đến vị trí ngày nay, đổi tên là "Bộc Bố Quan Âm Viện". Đường Cảnh Phúc
nguyên niên (892 CN) chùa mở rộng với lối kiến trúc hoành tráng qui mô,
diện tích 6000 m2, ruộng chùa 90 ha. Niên hiệu Tống Hàm Bình thứ hai
(999 CN), Tống Chân Tông Triệu Hằng tứ ban hiệu chùa là "Tuyết Đậu Tư
Thánh Thiền Tự". Năm Cảnh Hựu thứ tư (1037 CN), Hoàng đế Nhân Tông mộng
thấy dạo chơi núi Tuyết Đậu, liền tứ hiệu là "Ứng Mộng Đạo Tràng". Niên
hiệu Ninh Tông đời Nam Tống (1195 - 1224 CN), khi triều đình chế định
đẳng cấp các Thiền viện, chùa Tuyết Đậu được liệt vào một trong mười
ngôi cổ sát "Ngũ Sơn Thập Sát".
Thuần Hựu thứ năm (1245 CN), vua Lý Tông
Triệu Vân tứ ban "Ứng Mộng Danh Sơn", hương hỏa thịnh vượng. Về sau,
trải qua những cuộc hưng vong, chùa đã nhiều lần trùng tu, vào đầu niên
đại 60 còn lại ngôi điện vũ. Đầu triều đại nhà Thanh xây dựng lại Sơn
môn, Đại Hùng Bảo Điện, Thiên Vương điện, Pháp đường, Tàng kinh các, lầu
chuông, lầu trống, tăng phòng, Thiền thất... cột đỏ trong tự viện vài
trăm cây, kinh sách trong Tàng kinh các hàng vạn quyển.
Đời Nam Tống (1279), chùa Tuyết Đậu được
nổi danh ngang với các chùa Linh Ẩn - Hàng Châu; chùa Quốc Thanh -
Thiên Đài; chùa Thiên Đồng - Ninh Ba; chùa Vạn Thọ Vĩnh Tộ - Thiên
Ninh..., có vị trí cực cao. Thời nhà Minh chùa được liệt vào một trong
những "Ngôi cổ sát Thiền Tông nổi tiếng thiên hạ".
Dân Quốc về sau, chùa càng ngày càng
suy. Năm 1968, phải tháo dỡ do thiệt hại bởi loài mối mọt. Kiến trúc
hiện nay là vào niên đại 80, thế kỷ 20. Trước chùa có hai cây ngân hạnh
cổ, sau chùa có hai cây Nam Mộc bao bọc xung quanh được tướng quân
Trương Học Lương (3/6/1901 - 14/10/2001) trồng, đến nay vẫn còn xanh
tốt.
Lịch sử:
Tuyết Đậu Tư Thánh Thiền Tự nằm ở trung
tâm núi Tuyết Đậu - khu thắng cảnh cấp Quốc Gia. Chín ngọn núi bao
quanh, các thác nước cùng tuôn đổ, phong cảnh tú lệ, được khen là "Bồng
lai trên mặt biển, Thiên đài trên đất liền"
Chùa Tuyết Đậu, sáng lập vào đời nhà
Tấn, hưng khởi vào đời Đại Đường, phồn thịnh vào thời Lưỡng Tống (Bắc
Tống & Nam Tống), đến nay đã có trên bảy nghìn năm trăm năm, chiếm
một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo.
Đời Nam Tống (1127-1279) chùa được sắc
phong là một trong "Ngũ Sơn Thập Sát" (những ngôi cổ sát nổi tiếng). Đời
Minh được liệt vào một trong "Thập sát ngũ viện Thiền Tông thiên hạ".
Dân Quốc được khen là một trong "Ngũ đại danh sơn Phật giáo" nổi tiếng
của Phật giáo Trung Quốc (五大名山: Phổ Đà, Nga Mi, Ngũ Đài, Cửu Hoa và
Tuyết Đậu).
Cuối đời Thanh, đầu năm Dân Quốc, ông
Đinh Phúc Bảo - tác giả biên soạn bộ Phật Học Đại Từ Điển nói: Gần đây
có người chủ trương đưa núi Tuyết Đậu - Phụng Hóa thêm vào Tứ Đại Danh
Sơn cho thành Ngũ Đại Danh Sơn. Ông Triệu Phác Sơ - Nguyên Hội trưởng
Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, khi đến thị sát núi Tuyết Đậu cũng nói:
"Tuyết Đậu là nơi ứng hóa của Bồ tát Di Lặc, nên xây dựng điện Di Lặc
riêng cho Ngài, đặc biệt là phụng thờ một mình Ngài", và gọi Tuyết Đậu
là một trong Ngũ Đại Danh Sơn. Hiện nay chùa này đã xây cất điện Di Lặc,
chư Tăng khi vào điện, nhiễu quanh tượng Di Lặc xướng niệm thánh hiệu
Di Lặc Tôn Phật, cho nên gọi là Đạo tràng Di Lặc.
Chùa Tuyết Đậu quy mô hoành tráng, Phạm
Cung sâu sắc thâm thúy, tổng diện tích 85.847,4 m2, diện tích xây dựng
19.873,4 m2. Theo trục trung tâm từ ngoài nhìn vào, thứ tự là Sơn môn,
ao phóng sanh, chiếu bích (bức tường bình phong), Thiên Vương Điện, Di
Lặc Điện, Đại Hùng Bảo Điện, Nhũ Phong Tuyền, Pháp Đường... kiến trúc
dựa bên núi, tầng tầng lớp lớp từ thấp lên cao. Trong đó, bảo điện Di
Lặc được sáng tạo một cách độc đáo, tổng diện tích xây dựng 1218 m2, mái
hiên đôi, lợp ngói lưu ly màu vàng. Giữa điện tôn trí tượng Hòa thượng
Bố Đại, cao 5m, ngồi trên tòa Tu Di theo đồ án chín rồng được điêu khắc
bằng đá Thanh Điền (một trong những loại đá "Tứ đại Ấn Chương Thạch"
truyền thống TQ, sản xuất tại huyện Thanh Điền - tỉnh Triết Giang,
thường dùng đá này khắc ngọc tỷ cho Hoàng đế), bụng bự to chứa đầy sự
bao dung, ngồi co gối dáng bình thản, nét mặt tươi cười hoan hỷ. Hai bức
tường trong điện được đắp một nghìn tôn tượng Di Lặc nhỏ với nhiều tư
thế khác nhau, lấy ngũ đại danh sơn Trung Quốc làm bối cảnh, sáng tạo
hình thức mới, khiến cho người tham quan ngắm xem luôn có cảm giác mới
mẻ.
Chùa Tuyết Đậu có lịch sử rất lâu đời,
tông phong được truyền bá rộng rãi. Hoàng đế trong các triều đại, đã tứ
ban rất nhiều văn vật, hiện nay vẫn còn như: Ngự tứ ngọc ấn, ngự tứ ngọc
Phật, Đại Thanh Long Tạng, ngự tứ long bát, long bào và ca sa v.v...
Hàng nghìn năm nay, chùa Tuyết Đậu đã
năm lần bị phá hủy, trải qua mấy lần trùng hưng, mấy lần dời đổi. Từ
những năm cận đại cho đến nay, dưới sự kết hợp nhân duyên giữa gia đình
Tổng thống Tưởng Giới Thạch (31/10/1887 - 5/4/1975) và chùa Tuyết Đậu,
ông Tưởng Ngọc Biểu - Tổ phụ của Tưởng Giới Thạch rất kiền thành tin
Phật. Bà Vương Thái Ngọc - mẹ của Tưởng Giới Thạch, sau khi người chồng
trước qua đời, bà đã đến chùa Tuyết Đậu, phát nguyện xuất gia ba năm. Bà
đảnh lễ Thiền sư Quả Như chùa Tuyết Đậu làm thầy, ở tại Kim Trúc Am. Ba
năm sau, bà trở về cuộc sống thế tục và kết hôn với họ Tưởng sanh ra
Giới Thạch. Họ Tưởng đã từng cung thỉnh Đại sư Thái Hư giảng giải "Tâm
Kinh" cho Phu nhân Mao Phúc Mai - nguyên phối của ông.
Năm 1968, chùa Tuyết Đậu bị phá hủy lần
thứ năm, đến năm 1985, Chính phủ thành phố Phụng Hóa và Hiệp hội Phật
giáo thành phố Ninh Ba thành lập "Hội Ủy viên trù bị trùng tu chùa Tuyết
Đậu", đã lạc thành dự án của giai đoạn đầu vào tháng 8 năm 1987.
Danh lam thắng cảnh chùa Tuyết Đậu chủ
yếu có: Ngự Thư đình (御书亭) - "Ứng Mộng Danh Sơn"; Thiên Trượng Nham
(千丈岩) - "Phi Bộc Như Lôi" (thác nước đổ như sấm); Diệu Cao Đài (妙高台) -
"Tỵ thử thắng địa" (khu nghỉ mát mùa hè); Thương Lượng Cương (商量岗) - "Đệ
nhị Lô Sơn" (núi Lô Sơn thứ hai); cây Nam Mộc Tướng Quân do Trương Học
Lương - vị tướng lãnh kháng Nhật nổi tiếng tự tay trồng... Ngoài ra còn
có những thắng cảnh: Nhũ Phong Tuyền (乳峰泉); Ẩn Đàm (隐潭); Từ Phù Nham
(徐凫岩)... thêm vào đó là sự kết hợp với lịch sử nhân văn mà được nổi
tiếng khắp trong và ngoài nước. Nước có hưng thịnh thì Phật pháp hưng
thịnh, mang đến triển vọng cho tương lai. Chùa Tuyết Đậu nhân đây mà
Phật quang bủa khắp, tiền đồ rực rỡ quang huy cho đến ngày nay.
Những bậc cao tăng trụ trì chùa Tuyết Đậu triều Tống:
- Tống Càn Hưng Nguyên niên (1022 CN),
Thiền sư Trùng Hiển (980-1052) - đời thứ tư Tông Vân Môn Thiền Tông, trụ
trì Tuyết Đậu Tư Thánh Thiền Tự, trải qua 31 năm, mở rộng tự viện, đại
hưng Tông Vân Môn Thiền Tông.
- Khoảng Nam Tống Cao Tông Thiệu Hưng
(1131-1162) đến Long Hưng (1163-1164), Thiền sư Như Trạm - truyền nhân
đời thứ 30 tông Lâm Tế, khi trụ trì chùa Tuyết Đậu, ngài đã trùng tu
Phật điện "dựa vào kiến trúc cũ làm nhất quán".
- Vào niên hiệu Nam Tống Thiệu Hi
(1190-1193), Thiền sư Trí Giám đời thứ 12 tông Tào Động lãnh trách nhiệm
Phương trượng chùa Tuyết Đậu, truyền pháp cho Thiền sư Thiên Đồng Như
Tịnh, là nghiệp sư của Thiền sư Đạo Nguyên - Tổ sư khai tông Tào Động
tại Nhật Bản, cho nên Tông Tào Động Nhật Bản cũng suy tôn chùa Tuyết Đậu
là Tổ Đình
- Khoảng Tống Lý Tông Thuần Hựu
(1241-1252), Thiền sư Sư Phạm tông Lâm Tế trụ trì. Vua Lý Tông nghe
tiếng vời sư đến triều tu sửa điện chính, ban tăng y Kim Lan (金襕) cho
sư, thỉnh sư thuyết pháp, tứ ban cho sư hiệu là Thiền sư Phật Giám.
... và các triều đại cuối cùng:
- Triều nhà Nguyên thứ 17 (1280 CN),
Thiền sư Thiện Lai tông Lâm Tế trụ trì. Đến năm thứ 25 nhà Nguyên chùa
bị hỏa hoạn, Thiền sư Thiện Lai ra sức trùng tu, trải qua ba năm, tất cả
điện đường hiên các thêm phần quy mô tráng lệ.
- Minh Sùng Trinh thứ 16 (1643 CN), chùa
Tuyết Đậu lần thứ tư lại bị hư hoại bởi chiến tranh gây ra. Năm tiếp
theo Thiền sư Thạch Kỳ đời thứ 31 tông Lâm Tế chủ trì tu sửa, trải qua
18 năm, kinh doanh khổ cực mới khôi phục lại như cũ
- Khoảng niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh
(1821-1850), Thiền sư Tuệ Trí được sự ủng hộ của Chính phủ nhà Thanh, đã
trùng tu điện vũ, sơn môn, đình xá, ao hồ...
- Niên hiệu Quang Tự thứ 32 (1906),
Hoàng đế Quang Tự ngự ban ngọc ấn, ngọc Phật, long bào, ca sa, long bát
và vài trăm hòm kinh sách. Hàng loạt văn vật quý hiếm được cất giữ trong
Tàng Kinh lâu, tôn trí trong Pháp đường. Những văn vật này được bảo tồn
hàng nghìn năm nay, và đã trở thành bảo vật trấn sơn môn của chùa Tuyết
Đậu.
- Năm 1962, Đại sư Thái Hư lãnh trách
nhiệm trụ trì, Tưởng Giới Thạch đã từng thỉnh Đại sư giảng giải "Tâm
Kinh" cho bà Mao Phúc Mai - Phu nhân nguyên phối của ông, thất Tịch Tỉnh
trong chùa là nơi dành cho Mao phu nhân tụng kinh niệm Phật. Hai anh em
Tưởng Kinh Quốc, Tưởng Vỹ Quốc - con trai của Tổng thống Tưởng Giới
Thạch thuở nhỏ đã thường đến chùa Tuyết Đậu. Từ những nguyên nhân này,
chùa Tuyết Đậu một thời đã trở thành chùa nhà của gia đình họ Tưởng.
- Năm 1968, chùa Tuyết Đậu bị phá hủy, chỉ còn lại tăng phòng phía đông lang.
- Năm 1978 trở về sau, Chính phủ thực
hành chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, cũng bắt đầu từ đó chư tăng
đổ xô về chùa Tuyết Đậu tu học.
- Năm 1985, thành lập hội ủy viên trù bị
phục hưng chùa Tuyết Đậu, suy cử Pháp sư Quang Đức - Phó Hội trưởng
Thường vụ Hiệp hội Phật giáo thành phố Ninh Ba lãnh trách triệm trụ trì
chùa Tuyết Đậu, chủ trì các công tác giáo vụ, đặt kế hoạch xây dựng...
- Tháng 8/1987, dưới sự ủng hộ của các
cấp chính quyền sở tại và sự tài trợ của giới Phật giáo trong và ngoài
nước, Pháp sư Phương trượng Quang Đức đã trùng tu, xây dựng Đại Hùng Bảo
Điện, Di Lặc Bảo Điện, dãy tăng phòng đông lang, tây lang, lầu Phương
trượng.
- Năm 1993, sau khi Pháp sư Quang Đức
viên tịch, Pháp sư Nguyệt Chiếu - Hội trưởng Hiệp hội thành phố Phụng
Hóa, phát tâm kế thừa túc nguyện của Pháp sư Quang Đức, tiếp tục công
trình trùng tu đang bỏ dở. Hơn một năm trôi qua, ngôi cổ sát Tuyết Đậu
dưới sự chủ trì của Pháp sư Nguyệt Chiếu sửa chữa hoàn toàn mới mẻ, sừng
sững giữa những ngọn núi bao quanh. Như: Sơn môn, Thiên Vương điện,
Tàng kinh lâu, Pháp đường, lầu chung cổ, ao phóng sanh, lầu hoằng pháp,
phòng trai soạn, vườn hoa cảnh, tháp viện Pháp sư Quang Đức, khách đường
tân quán... Ngoài ra, Pháp sư Nguyệt Chiếu còn thành lập một số đạo
tràng học tu song vận, đạo tràng giáo dục văn hóa Phật giáo, đạo tràng
liên kết Phật giáo đồ trong và ngoài nước... Tuân giữ lời Phật dạy mỗi
năm từ 15/4 đến 15/7 âm lịch, tổ chức an cư kiết hạ cho tăng chúng, do
Sư Nguyệt Chiếu chủ giảng "Kinh Diệu Pháp Liên Hoa", "Giới bổn Tứ phần
Tỳ Kheo" và Tham thiền..
- Ngày 23/9/ đến 29/9/1994 (18/8 âl),
chùa Tuyết Đậu long trọng tổ chức đại lễ khai quang Bồ tát Đại từ Di Lặc
và một nghìn tượng Bồ Tát Di Lặc nhỏ tại Bảo điện Di Lặc. Đồng thời
cung thỉnh chư sơn trưởng lão, các Pháp sư khởi kiến đại đàn tràng Thủy
Lục Không Hành, phổ thí Du già Diễm khẩu. Một thời cực thịnh.
Văn hóa Phật giáo:
Sau khi nhà Đường diệt vong, Tuyết Đậu
dựa vào môi trường địa lý thuận lợi của Thiên Đài Nam Liên, Phổ Đà Đông
Đạt, rất nhiều vị Thiền sư chốn Tòng lâm nổi tiếng trong và ngoài nước
đều đến núi Tuyết Đậu chủ trì Phật sự trong tự viện. Ngoài Thiền sư Diên
Thọ Tri Giác (904-975) - Tổ thứ sáu Tịnh Độ Tông, Tổ thứ ba Tông Pháp
Nhãn - Thiền Tông, còn có Thiền sư Trùng Hiển Minh Giác (980-1052 CN) -
"Tổ trung hưng chi môn", pháp tôn đời thứ tư Tông Vân Môn, hai bậc long
tượng pháp khí này lần lượt chủ trì chùa Tuyết Đậu, khiến cho chùa Tuyết
Đậu ngày càng phát triển, ngày càng hưng thịnh. Đồng thời lúc này, Công
nguyên năm 1006 vào thời Bắc Tống, Khê Khẩu bắt đầu xây dựng thôn làng
đại quy mô, nằm bên bờ sông Diệm Khê dưới núi Tuyết Đậu. Khê Khẩu "nương
tựa vào núi mà hưng khởi", "nhờ duyên Phật độ mà thịnh hành", đến đời
Nam Tống thì đã có gần 8000 nhân khẩu.
Văn hóa Phật giáo núi Tuyết Đậu có lịch
sử rất lâu dài, có tầm ảnh hưởng sâu sắc đối với Khê Khẩu, và văn hóa
Phật giáo cũng đã trở thành cốt lõi văn hóa thuộc khu vực Khê Khẩu cổ
đại; tín chúng Khê Khẩu thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, tư tưởng Thiền
Tông cũng do đây mà đã dần dần thẩm thấu vào họ, và đã có sức ảnh hưởng
rất lớn đến giá trị của họ. Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã được sinh ra
vào cuối đời Thanh, tại Cổ Trấn Khê Khẩu - Phật Sơn Thánh Cảnh, số mệnh
của ông dường như đã được định trước và gắn liền trên vùng đất đầy đủ
nhân tố này để phát triển sự nghiệp Phật giáo.
Văn hóa Phật giáo núi Tuyết Đậu suy yếu
dần trong hai triều đại Minh, Thanh. Sau đời Thanh, chùa được mở rộng.
Niên hiệu Quang Đạo nhà Thanh (1850 CN), dưới sự tài trợ của triều đình,
Thiền sư Trí Tuệ chùa Tuyết Đậu trùng tu lại điện đường, sơn môn, đình
xá, ao hồ... Năm Quang Tự (1877 CN), nhà vua rất sùng kính chùa Tuyết
Đậu, ngự ban ngọc ấn, ngọc Phật, long bào, long bát và rất nhiều kinh
sách cho tăng chúng.
Nhà tàng trữ trong tự viện:
Vào niên hiệu Cảnh Đức (892 - 893),
Thiền sư Thường Thông (常通禅师) - đời thứ năm Nam Nhạc, khi lãnh trách
nhiệm Trụ trì chùa Tuyết Đậu, ngài tu sửa điện đường và được quan Thứ Sử
cúng dường 1300 mẫu ruộng, cung cấp cho chư tăng, đây chính là thời kỳ
hưng khởi. Đời sau tôn Thiền sư Thường Thông làm Tổ thứ nhất khai sơn
Thiền viện Tuyết Đậu. Sau này, chùa Tuyết Đậu đã trở thành Tòng Lâm
Thiền Tông. Chùa Tuyết Đậu nhiều lần hết hưng rồi đến phế, cuối cùng bị
phá hủy vào năm 1968, hiện còn lại 7 liêu phòng đã xây dựng vào đời
Thuận trị nhà Thanh.
Theo "Tự Chí" ghi chép: Vào thời kỳ
Đường Tống, chùa Tuyết Đậu đã lần lượt được các vị Hoàng đế tứ ban 41
đạo sắc dụ, đến nay trong chùa vẫn còn 5760 bản kinh thư "Khâm Tứ Long
Tạng"... vua Tống Tông (1121 - ?) tứ ban tấm biển "Tuyết Đậu Tư Thánh
Thiền Tự", Tống Lý Tông Triệu Vân (1205 - 1264 CN) truy tặng "Ứng Mộng
Danh Sơn"...
Đạo Tràng Di Lặc:
Núi Tuyết Đậu nằm ở khu du lịch thắng
cảnh cấp quốc gia nổi tiếng Khê Khẩu, thành phố Phụng Hóa, tỉnh Triết
Giang. Thời nhà Hán đã được người đời đặt cho mỹ hiệu là "Lục Thượng
Thiên Đài, Hải Thượng Bồng Lai" (đài trời trên đất liền, bồng lai trên
mặt biển). Thời Ngũ Đại (Hậu Lương (907- 923), Hậu Đường (923-936), Hậu
Tấn (936-946) Hậu Hán (947-950), Hậu Chu (950-960), Hòa thượng Bố Đại
ứng hóa tại đây, và đây chính là Đạo tràng Bồ tát Đại từ Di Lặc.
Theo sự ghi chép trong Tuyết Đậu Tự Chí:
Vua Nhân Tông triều nhà Tống (1010-1063) khi ngủ đã nằm mộng thấy dạo
chơi núi Tuyết Đậu, sau này Hoàng đế Tống Lý Tông ban cho tấm biển "Ứng
Mộng Danh Sơn", Thiền sư Quảng Văn - Trụ trì chùa Tuyết Đậu đã khắc trên
Thạch Trúc Đình, gọi là "Ngự Thư Đình" (御书亭). Chùa Tuyết Đậu được xem
là ngôi cổ sát nổi tiếng của Phật giáo, đã có lịch sử rất lâu đời, khai
sơn đời Tấn, đời Đường trở thành "Thập Phương Thiền Viện", Ninh Tông
(1168-1224) đời Nam Tống gọi là một trong "Ngũ Sơn Thập Sát" - đẳng cấp
tối cao trong các tự viện, đời Minh được gọi là "một trong thiên hạ
Thiền Tông Thập Sát".
Gia đình cựu Tổng thống Tưởng Giới Thạch
có Phật duyên thâm sâu đối với chùa Tuyết Đậu, về việc xây dựng núi
Tuyết Đậu và chùa Tuyết Đậu họ đặc biệt rất quan tâm, Tưởng Giới Thạch
còn tự tay viết trên sơn môn năm chữ "Tứ Minh Đệ Nhất Sơn" (四明第一山). Dân
chúng Đài Loan đến chùa Tuyết Đậu triều bái Đạo Tràng Di Lặc gọi chùa
này là "chùa nhà họ Tưởng". Tướng quân Trương Học Lương tự tay mình
trồng bốn cây Nam Mộc (loại cây được bảo hộ cấp II Quốc gia, cũng là đặc
sản của Trung Quốc. Theo: (Baidu) phía sau đại điện, đến nay chỉ còn
lại hai cây.
Về mặc ưu điểm:
1. Thành phố Phụng Hóa - Ninh Ba có chùa
Tuyết Đậu. Thời kỳ Cộng hòa Dân quốc, Tổng thống Tưởng Giới Thạch gọi
núi Tuyết Đậu là "Tứ Minh Đệ Nhất Sơn" (四明第一山), văn hóa các triều đại
miêu tả núi Tuyết Đậu là "Tú Giáp Tứ Minh" (秀甲四明).
2. Chùa Tuyết Đậu là ngôi cổ sát Thiền
tông nổi tiếng Phật giáo. Triều đại Hoàng đế Tống Ninh Tông đánh giá là
ngôi tự viện đẳng cấp trong các tự viện, cũng là một trong "Ngũ Sơn Thập
Sát". Đời Minh được khen là một trong "thập đại danh sát Thiền tông nổi
tiếng thiên hạ".
3. Chùa Tuyết Đậu rất có duyên với Bồ
tát Di Lặc. Hòa thượng Bố Đại - hóa thân Bồ tát Di Lặc, chính là người
thôn Trường Thinh, Phụng Hóa. Xuất gia, viên tịch đều tại Thiền tự Nhạc
Lâm - thành phố Phụng Hóa, ngài thường đi giáo hóa, làm Phật sự tại chùa
Tuyết Đậu, nhân đây, chùa Nhạc Lâm và chùa Tuyết Đậu đều được gọi là
"Di Lặc Ứng Tích Thánh Địa" (Thánh địa - nơi hóa thân của ngài Di Lặc).
Sơn môn núi Tuyết Đậu (雪窦山)
Sơn môn chùa Tuyết Đậu (雪窦寺)
Đại Hùng Bảo Điện chùa Tuyết Đậu
Sắc thu nơi chùa Tuyết Đậu
Thiên Vương điện chùa Tuyết Đậu
Từ Đường nhà họ Tưởng
Lăng mẫu thân Tổng thống Tưởng Giới Thạch
Pháp Đường chùa Tuyết Đậu
Di Lặc Bảo Điện
Thôn trang Di Lặc Phật Sơn - truyền thuyết nơi ứng hóa của Hòa Thượng Bố Đại
Điện Di Lặc thôn Trường Thinh
Niết Bàn thạch ngoài Đông lang chùa Nhạc
Lâm. Theo sử liệu ghi lại Hòa Thượng Bố Đại đã ngồi trên bàn thạch ngoài
đông lang chùa Nhạc Lâm viên tịch vào đời Hậu Lương Trinh Minh năm thứ
ba (CN 917)
Niết Bàn Thạch
Đình Phật Tháp - nơi mai táng nhục thân của Hòa Thượng Bố Đại sau khi viên tịch. Hiện nền tháp đã bị hư hoại.
Cổ trấn nghìn năm - quê hương họ Tưởng
Núi Tứ Minh (四明山) - Triết Giang
Thiên Trượng Nham (千丈岩)
Thác nước Tam Ẩn Đàm (三隐潭)
Đồi Thương Lượng (商量岗)
Đồi Thương Lượng (商量岗)
Diệu Cao Đài