Cống
hiến có ý nghĩa lịch sử quan trọng nhất của Lý Công Uẩn sau khi lên làm
vua là việc ông quyết định chọn thành Đại La làm kinh đô, dời đô từ Hoa
Lư về Đại La và đổi tên thành Thăng Long, Hà Nội ngày nay. Việc
Lý Công Uẩn chọn Thăng Long làm kinh đô vừa đáp ứng được yêu cầu phát
triển mới của thời đại, của Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
đang vươn lên mạnh mẽ, vừa có tầm nhìn xa rộng và kế sách lo toan cho
con cháu muôn đời sau. Lý Công Uẩn làm vua 18 năm. Trong thời gian ấy ông đã làm được một số việc mà quốc sử ghi chép như là những việc trọng đại. Thứ nhất,
Lý Công Uẩn cho xây dựng kinh thành Thăng Long có quy mô bề thế, bao
gồm cung điện và một hệ thống các điện Càn Nguyên (làm chỗ thiết triều),
điện Tập Hiền, điện Giảng Võ… cùng kho tàng, hào lũy. Bốn mặt thành mở 4
cửa Tường Phù (phía Đông), Quảng Phúc (phía Tây), Đại Hưng (phía Nam),
Diệu Đức (phía Bắc). Thứ hai,
để đáp ứng nhu cầu của đời sống tâm linh, nhu cầu về tôn giáo tín
ngưỡng, mà khi đó Phật giáo là Tôn giáo được tầng lớp quý tộc, cung đình
cũng như dân chúng tôn sùng, Lý Công Uẩn đã cho xây cất nhiều chùa, như
ở phía Nam kinh thành, ở phủ Thiên Đức (châu Cổ Pháp cũ). Lý Thái Tổ là người đặt nền móng vững vàng cho sự hưng thịnh của Phật giáo thời Lý. Thứ ba,
khi vương triều Lý được thành lập, ở một số địa phương, đặc biệt là ở
vùng biên giới phía Bắc, có những thế lực nổi dậy cướp phá, cát cứ. Nhằm
dẹp yên các cuộc khởi loạn và nắm được quyền uy của vương triều Lý trên
toàn lãnh thổ quốc gia, Lý Thái Tổ tiến hành những cuộc chinh phạt có
hiệu quả ở châu Ái, châu Diễn, châu Vị Long, châu Thất Nguyên… Thứ tư, về đối ngoại, Lý Thái Tổ đã thiết lập được quan hệ ngoại giao khá tốt đẹp với triều Tống. Bên
cạnh những thành tích lớn trên, Lý Thái Tổ còn có công bước đầu xây
dựng một bộ máy có quy chủ từ triều đình xuống tới châu, huyện, hương,
ấp; bổ nhiệm một hệ thống quan chức Thái úy, Tổng quản, Khu mật sứ, Thái
bảo, Thái phó, Tả hữu kim ngô, Tả hữu võ vệ, Ngự sử đại phu, Đô đốc
Thượng tướng quân và Viên ngoại lang. Đồng thời, Lý Thái Tổ sau khi lên
làm vua, đã sớm ban bố chiếu lệnh buộc những người trước kia trốn tránh
phải trở về quê cũ sản xuất; định lệ thuế khóa các loại… Trong chính
sách thuế, ông có sự chiếu cố đối với người già yếu, kẻ mồ côi, tàn tật,
góa bụa. Các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư
khen Lý Thái Tổ “là người khoan từ nhân thứ”. Sử gia Ngô Thì Sĩ khi
đánh giá nhà Lý, nhà Trần có viết: “Triều Lý nhân ái, triều Trần anh
hùng”. Nền nhân chính thời Lý được hình thành chính là từ Thái tổ Lý
Công Uẩn. Vương triều Lý do Lý Công Uẩn khai sáng tồn tại 215 năm, với 8
đời vua, là một triều đại lớn trong lịch sử Việt Nam có những ông vua
anh hùng cứu nước và khai sáng văn hiến dân tộc, như Lý Thánh Tông
(1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128); những nhà quân sự, chính trị kiệt
xuất, như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành… Khi
khảo cứu về chế độ, điển chương thời Lý, Lê Quý Đôn cũng như Phan Huy
Chú đều nói, vì thời Lý cách xa quá lâu, tài liệu mất mát, thiếu thốn
nhiều, song dựa vào các nguồn tài liệu sách vở, văn kiện hiện còn, chúng
ta thấy những dấu ấn văn hóa khá rực rỡ của triều Lý vẫn in khắc sâu
trong lịch sử Việt Nam. Thí dụ về cơ cấu tổ chức Nhà nước, về quan
chế... Phan Huy Chú đã khảo cứu chức “Á tướng” đời Lý là Tả hữu Tham tri
chính sự là chức ở trong Chính phủ, dưới chức Tướng quốc. Hoặc như Lục
bộ, theo Phan Huy Chú, ở nước ta chức Thượng thư đặt ra bắt đầu từ thời
Lý, nhưng tên các bộ chia đặt thế nào chưa rõ. Đời Trần theo phép ấy của
nhà Lý đặt chức Thượng thư hành khiển, Thượng thư hữu bật, sau mới chia
ra Thượng thư các bộ (bộ Lại, bộ Binh, bộ Hình). Về
quân sự, nhà Lý buổi đầu mô phỏng binh chế đời Đường… đời Tống, nhưng
có nhiều sáng tạo độc đáo, trong đó cách hành quân, cách tác chiến chính
người Tống lại phải học tập nhà Lý. Những chiến tích quân sự bất diệt
của đời Lý đã chứng minh nền quốc phòng và quân sự đương thời là vô cùng
mạnh mẽ, tài giỏi. Cùng
với thành tích quân sự, nền ngoại giao triều Lý cũng giành được nhiều
thắng lợi quan trọng. Với một đường lối đối ngoại vừa khôn khéo, vừa
cứng cỏi, vương triều Lý đã buộc nhà Tống phải nể trọng, nên trong việc
giải quyết về các vụ tranh chấp đất đai ở khu vực biên giới giữa nhà Lý
với nhà Tống, phía nhà Lý thường chiếm ưu thế, bởi vậy, lãnh thổ đất
nước được bảo vệ chắc chắn, toàn vẹn. Về
phát triển kinh tế, dưới triều Lý còn có nhiều bước tiến bộ quan trọng,
đặc biệt là việc xây dựng các công trình thủy lợi, trong đó công trình
đắp đê Cơ Xá (sông Hồng, Thăng Long). Nghề dệt, nhất là nghề làm đồ gốm
đạt tới đỉnh cao của kỹ thuật và nghệ thuật thủ công nghiệp. Ngoại
thương phát đạt. Việc giao lưu buôn bán giữa nhà Lý với các nước vùng
Đông Nam Á như Xiêm La, Giava, Tam Phật Tề (Palembang)... khá sôi nổi.
Vân Đồn trở thành thương cảng quốc tế quan trọng của Việt Nam khi đó. Trong
lịch sử văn minh Việt Nam, vương triều Lý là vương triều mở đầu kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Việc triều Lý mở Quốc Tử Giám,
xác lập chế độ đại học, mở khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước là
những sự kiện, những cái mốc văn hóa mang ý nghĩa trường cửu. Phật
giáo du nhập nước ta từ rất sớm. Giao Châu từng là một trung tâm Phật
giáo nổi tiếng thời cổ. Nhưng phải đến thời Lý, người Việt Nam mới xây
dựng được một đạo Phật mang đặc điểm dân tộc rõ nét, đánh dấu bằng sự ra
đời của Thiền phái Thảo Đường (1096-1205) với các thế hệ Lý Thánh Tông
(1054-1017), Không Lộ, Giác Hải, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông... Dưới ảnh
hưởng của tư tưởng Phật giáo Thiền Tông, ở thời Lý, kiến trúc nghệ thuật
xây chùa, tháp, đúc tượng đạt thành tựu rực rỡ. Văn học, đặc biệt là
thơ Thiền đời Lý, đã trở thành một di sản quý giá trong kho tàng văn
chương Việt Nam. Khi nói đến sự kiện Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư, Ninh Bình ra Đại La, tức Thăng Long là phải nói đến Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu) do Lý Công Uẩn tự tay viết. Chiếu dời đô, vừa là một văn kiện lịch sử, chính trị, vừa là một áng văn bất hủ, mở đầu 1000 năm thơ văn viết về Thăng Long - Hà Nội. Nguồn sử tịch sớm nhất chép bài văn Chiếu dời đô của Thái Tổ Lý Công Uẩn là Đại Việt sử ký toàn thư, bộ quốc sử do Ngô Sĩ Liên biên soạn năm 1479, dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn (nửa sau thế kỷ XIX) cũng có bài Chiếu dời đô. Ngoài ra, còn có một số sách khác cũng chép bài Chiếu dời đô, thí dụ Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích (1744-1818). Sau khi đối chiếu các văn bản Chiếu dời đô được chép ở ba bộ sách vừa dẫn trên, chúng tôi chọn bài Chiếu dời đô trong Đại Việt sử ký toàn thư
để dịch lại và giới thiệu, vì đây là văn bản có niên đại sớm nhất (thế
kỷ XV) mà về sau Bùi Huy Bích cũng như Quốc sử quán triều Nguyễn đều dựa
vào để sao chép lại (rồi sửa chữ như Bùi Huy Bích, hoặc lược bớt đi cho
gọn như các sử thần ở Quốc sử quán triều Nguyễn đã làm). Dưới đây là phần phiên âm và dịch nghĩa, chú thích toàn văn bài Chiếu dời đô. Phiên âm "Thủ chiếu viết: "Tích
Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành vương tam tỉ;
khởi Tam đại chi sổ quân, tuận vu kỷ tư, võng tự thiên tỷ, dĩ kỳ đồ đại
trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế. Thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân
dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải, cố quốc tộ diên trường, phong tục phú
phụ. Nhi Đinh, Lê nhị gia, nãi tuận kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo
Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường,
toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi, Trẫm thậm thống
chi, bất đắc bất tỷ. Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa
khu vực chi trung, đắc long bàn hổ cứ chi thế, chính nam, bắc, đông,
tây chi vị, tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản
bình, quyết thổ cao nhi sảng khải, dân cư miệt hôn điếm chi khốn, vạn
vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa, thành
tứ phương bức thấu chi yếu hội, vi vạn thế kinh sư chi thượng đô. Trẫm
dục nhân thử địa lợi, dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?". Dịch nghĩa "(Nhà vua) tự tay viết Chiếu rằng: "Xưa kia nhà Thương đến đời Bàn Canh ([1] năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ([2]) ba lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại [3])
liều vì riêng mình, tự ý bậy bạ chuyển đi nơi khác, mà bởi họ mưu tính
lớn lao, chọn ở nơi trung tâm, làm kế muôn vạn đời cho con cháu về sau.
Trên cung kính mệnh trời, dưới dựa theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì
thay đổi, cho nên phúc nước dài lâu, phong tục giầu thịnh. Thế mà hai
nhà Đinh, Lê mới vì riêng mình, quên mệnh trời, bước đạp bừa lên dấu
tích Thương, Chu, cứ yên ở mãi ấp ([4])
nhỏ của mình nơi ấy, để đến nỗi đời chẳng được dài, vận số ngắn ngủi,
trăm họ hao tổn, muôn vật không thích hợp, Trẫm rất thương xót, không
thể không di dời khỏi đó. Huống chi thành Đại La ([5]), đô ([6]) cũ của Cao Vương ([7]) ở
khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuốn, hổ ngồi; chính vị
đông, tây, nam, bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu
vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không
bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi. Ngắm
xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất,
thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất kinh sư của kinh sư ([8]) muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định đô ở đó, các khanh nghĩ thế nào?". Chiếu, tức chiếu lệnh hoặc chiếu thư, là một thể văn, vua ban ra để nói rõ cho quần thần, dân chúng biết về một vấn đề gì đó. Đây
là loại hình văn bản quan trọng vì nó vừa là mệnh lệnh của vua, vừa là
chủ trương, chính sách của triều đình về chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục... mà quan, dân phải thực hiện. Ở nước ta thời xưa, Chiếu dời đô là văn bản sớm nhất, đầu tiên, của thể văn chiếu và là một văn kiện mang ý nghĩa vô cùng to lớn, vì đây là tờ chiếu
nói về việc Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra
Thăng Long - một sự kiện trọng đại, mở ra bước phát triển mới trong lịch
sử Việt Nam. Chiếu dời đô không chỉ là một văn kiện chính trị, mà còn là một áng văn hay, có giá trị văn học. Việc Bùi Huy Bích chọn đưa Chiếu dời đô vào công trình Hoàng Việt văn tuyển, chứng tỏ cụ là nhà làm văn tuyển có con mắt rất tinh tường. Đọc Chiếu dời đô,
chúng ta thấy áng văn này đã thể hiện được rõ Lý Công Uẩn, người khai
sáng Vương triều Lý, khai sáng Kinh đô Thăng Long, có tầm nhìn chiến
lược đại ngàn, đã định hướng đúng cho sự phát triển bền vững, lâu dài
của đất nước. Cũng qua Chiếu dời đô, chúng ta biết Lý Công Uẩn có ngọn bút tả cảnh tài giỏi, giầu hình tượng và giầu trí tưởng tượng, giầu tính dự báo. Nếu nhìn từ góc độ văn học sử mà nói, Chiếu dời đô quả là áng văn bất hủ, mở đầu cho 1000 năm thơ văn viết về Thăng Long - Hà Nội. [1] Bàn Canh: Vua thứ 17 của nhà Thương (ước khoảng thế kỷ XVI tr. Cn - 1066 tr. Cn. [2] Thành Vương: Vua thứ 3 nhà Chu (ước khoảng năm 1066 tr. Cn - 771 tr. Cn). [3] Tam đại: ba đời Hạ, Thương, Chu ở Trung Quốc. [4] Ấp: Theo chế độ hành chính thời cổ, đất ở địa phương, lớn gọi là đô, nhỏ gọi là ấp. Đất được phong cũng gọi là ấp. [5] Thành Đại La: thuộc địa phận Hà Nội (cũ). [6] Đô: ở đây là chỗ chính quyền cấp cao nhất ở, tức thành Đại La. [7]
Cao Vương: tức Cao Biền, viên quan đứng đầu bộ máy cai trị của nhà
Đường ở nước ta (thời đó gọi là Giao Châu) vào nửa sau thế kỷ thứ IX và
Cao Biền cho đắp thành Đại La khoảng năm 866. [8] Kinh sư: là quốc đô, nơi vua ở. Kinh sư còn gọi là Thượng đô, Kinh đô. Chữ "Thượng đô" trong nguyên tác Chiếu dời đô, khi dịch, tôi chuyển thành chữ "Kinh sư". Tạ Ngọc Liễn – Tạp chí Nhà văn – Hội Nhà Văn Việt Nam |