Hàng
năm cứ vào ngày 8 tháng 12 Âm Lịch, Tăng Ni và Phật tử Phật giáo Bắc
truyền long trọng tổ chức đại lễ kỷ niệm ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni –
Đấng Giáo chủ cõi Sa Bà thành đạo.
Cách
đây hơn 2600 năm, trên thế gian này đã xuất hiện một bậc Vĩ nhân giác
ngộ vẹn toàn dưới cội cây Bồ Đề. Kỷ niệm ngày thành đạo, chúng ta cùng
nhau tưởng nhớ lại sự kiện trọng đại này của Đức Bổn Sư.
Ngày
Đức Thế Tôn thành đạo mang lại niềm khích lệ vô lượng, vô biên cho Chư
Thiên và loài người. Sự giác ngộ vẹn toàn của Đức Phật đã tạo một niềm
tin trong sáng, vững chắc vào Tam Bảo cho Tăng Ni và Phật Tử, nó giúp
chúng ta tự tin vào chính mình trong quá trình tu tập, hóa giải đau khổ,
tìm đến con đường an lạc, giải thoát.
Đức
Phật thành đạo cũng phải trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp, tinh tiến tu
tập, hành Bồ Tát Đạo, diệt trừ nội ma, ngoại chướng. Nội ma chính là
phiền não khổ đau, kiến hoặc, tư hoặc; là nguyên nhân dẫn đến sinh tử
luân hồi. Ngoại chướng chính là nói đến chướng duyên bên ngoài, đó là sự
cám dỗ của ngũ dục thế gian. Tất cả những thứ đó được kết thúc sau 49
ngày thiền định dưới cây đại thụ Bồ Đề. Ngài đã thực sự giác ngộ, giải
thoát hoàn toàn, không còn bị sinh tử luân hồi trói buộc, an nhiên tự
tại trong mọi hoàn cảnh.
Sau
khi chứng được quả vị Vô Thượng Bồ Đề, Đức Phật đã quyết định chuyển
vận bánh xe chính Pháp. Trong suốt 49 năm thuyết Pháp độ sinh, Đức Phật
như một vị lương y đại tài, tùy theo căn cơ, trình độ của chúng sinh mà
nói ra vô lượng các pháp môn tu. Pháp môn tuy nhiều, nhưng không ngoài
mục đích chuyển mê khai ngộ cho tất cả chúng sinh. Vì mê là gốc khổ, ngộ
là gốc vui, chuyển mê khai ngộ là chuyển đổi tâm mê thành tâm giác ngộ,
đem lại cuộc sống an vui cho nhân loại.
Đức
Phật đã cho chúng ta thấy rõ mê là gốc khổ, nó đã làm cho chúng sinh
phải sống trong phiền não khổ đau, sinh tử luân hồi trong lục đạo, tự
trói chặt thân Ngũ uẩn giả tạm của mình bằng sợi dây vô minh tham ái. Vì
thế trong kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật dạy rằng:
“Điều thứ hai phải nên giác ngộ
Ham muốn nhiều, lụy khổ càng sâu
Nhọc nhằn sinh tử bấy lâu
Đều do tham dục dẫn đầu gây nên.”
Khổ
đau chính là do chúng ta tự tạo ra thì cũng chính chúng ta phải nỗ lực
tinh tiến tu tập để diệt trừ nó đi. Tự mình triệt phá vô minh, tự mình
dập tắt tâm tham dục, không ai có thể làm thay cho chúng ta được.
Trải
qua nhiều kiếp hành Bồ tát đạo cho đến khi thành Phật, Đức Thế Tôn luôn
dùng tâm từ bi bình đẳng để giáo hóa chúng sinh; coi kẻ oán cũng như
người thân; vượt qua rào cản tâm thương ghét; tự tại trước nghịch cảnh
và thuận duyên. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật có dạy rằng:
“Lập nguyện lớn cầu vô thượng đạo
Hạnh kiên trì hoài bão độ sinh
Dù bao chướng ngại tu hành
Vẫn không lay chuyển hạnh lành từ bi!”
Đức
Phật khi thuyết pháp độ sinh không phải lúc nào cũng thuận duyên, có
khi ngài cũng gặp phải những nghịch cảnh do lòng đố kỵ của ngoại đạo tà
giáo, hay lòng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây ra: như chàng Vô
Não, người anh họ Đề Bà Đạt Đa… Nhưng ngài vẫn sống với tâm chân thường,
thanh tịnh, tự tại không hề giao động trước nghịch cảnh. Với tâm từ bi
và trí tuệ sáng suốt, Ngài đã khéo léo chuyển hóa những nghịch cảnh
thành thuận duyên, đưa chúng sinh trở về với chính Pháp.
Thời
Đức Phật còn tại thế, có một hôm, Đức Phật cùng với Tăng đoàn đến
thuyết pháp ở một làng ngoại đạo, thay vì đón tiếp cung nghinh, họ kéo
nhau ra xua đuổi, chửi mắng Đức Phật và Tăng đoàn; trước hoàn cảnh đó,
tâm ngài vẫn an nhiên bất động như vàng ròng gặp lửa vẫn giữ nguyên màu
sắc. Thế mới biết:
“Chưa gặp lửa vàng thau một sắc
Gặp lửa rồi hai chất khác nhau
Vàng thì trước cũng như sau
Còn thau thì lại sắc màu đổi thay.”
Tâm
Phật được ví như vàng, dù ở hoàn cảnh nào cũng không hề thay đổi màu
sắc. Khác với tâm của chúng sinh là tâm vô thường, luôn thay đổi theo
ngoại cảnh. Trước những hành động vô lễ của ngoại đạo đối với Đức Phật
và Tăng đoàn như thế, ngài A Nan không hài lòng, liền bạch với Đức Phật
nên đi làng khác giáo hóa. Đức Phật hỏi ngài A Nan: Nếu Như Lai và Tăng
đoàn đến làng khác, họ cũng có những hành động như thế thì đi đâu? Ngài A
Nan bạch rằng: Thầy trò chúng ta lại đi nơi khác. Đức Phật mỉm cười nói
với ngài A Nan: không được. Như Lai thị hiện ra đời là để cứu khổ ban
vui cho chúng sinh, nơi này tâm họ còn u mê, chưa hiểu ta; vì thế Như
Lai cần phải trụ lại ở đây để thuyết pháp giáo hóa họ tu tập. Đức Phật
dạy đại chúng: làm công việc lợi tha, giúp đỡ chúng sinh cần phải có tâm
kiên nhẫn:
“Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.”
Đức
Phật thành đạo đã minh chứng cho chúng ta thấy rằng: mỗi chúng sinh đều
có Phật tính. Như Ngài đã từng tuyên bố: Ta là Phật đã thành, chúng
sinh là Phật sẽ thành. Bằng chứng cụ thể nhất là những đệ tử của Ngài từ
những dòng dõi quý tộc cho đến những người căn tính ám độn như ông Bàn
Đặc, thấp hèn như Ưu Ba Li – thợ cắt tóc, tàn ác như Vô Não... Dưới sự
cảm hóa và hướng dẫn tu tập của Đức Phật, họ đều được giác ngộ giải
thoát. Điều này chứng minh tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có
khả năng giác ngộ giải thoát như nhau, nếu hành trì, tu tập đúng với
chính Pháp.
Trong
quá trình tu tập, mỗi chúng ta nên tâm niệm một điều rằng: để đi đến
con đường giác ngộ giải thoát, tiến đến quả vị Phật là một nhiệm vụ khó
khăn nhất ở thời mạt pháp đối với mỗi con người. Thuận duyên cũng nhiều,
nhưng nghịch duyên cũng không phải là ít. Khi gặp thuận duyên, điều
kiện tu tập tốt, chúng ta phải cố gắng tinh tiến, không nên giải đãi,
đắm nhiễm vào những lời khen, lời tán thán mà sinh tâm kiêu mạn, làm mất
hết công đức tu tập bấy lâu. Khi tâm đã tiếp nhận những lời khen thì
khi gặp những nghịch cảnh: người khác chê bai, bài xích, nói xấu, chúng
ta dễ sinh tâm buồn phiền, đau khổ, sống trong vòng đối đãi, đây là đầu
mối của sinh tử luân hồi. Cho nên phải biết:
“Nghe chê mà vội giận ngay
Thì lời sàm báng dễ hay lọt vào
Nghe khen lại vội mừng sao
Là mồi kẻ nịnh ngọt ngào đưa hơi.”
Người
tu hành phải luôn nhìn thẳng vào sự thật, xem lại chính mình khi có
lỗi, tu tập không đúng với chính Pháp, được người khác nhìn thấy chỉ bày
thì không có gì phải buồn phiền, sẵn sàng đón nhận để sửa chữa; và
chính họ là những bậc thiện hữu tri thức của chúng ta. Còn nếu như lời
nói của họ vì tâm ganh ghét, đố kỵ, ích kỷ thì chúng ta coi đây là một
sự thử thách xem mình tu tập kiên nhẫn đến đâu. Con đường rải đá tuy ghồ
ghề, khi đi nó làm cho chân chúng ta bị đau, nhưng mỗi bước đi nó sẽ
vững chắc hơn, không làm chúng ta bị sa ngã. Người xưa đã nói:
“Làm nên sự nghiệp lẫy lừng
Phần nhiều trong lúc khốn cùng mà ra
Những kẻ đắc trí kiêu sa
Là cơ thất bại khó mà thành công.”
Trong
kinh Đức Phật cũng dạy rằng: “Người nào chịu đựng được những cảnh thuận
nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an
vui tự tại thì người đó là một vị Phật trong tương lai’. Đây là ý nghĩa
hết sức sâu sắc, vi diệu của Đạo Phật.
Kỷ
niệm ngày Đức Phật Thành Đạo là dịp để mỗi người con Phật chúng ta
tưởng nhớ đến công đức cao dày của Đức Thế Tôn. Ngài là người đã khai
sáng ra con đường bất tử, vô sinh cho chư thiên và loài người. Sự an lạc
giải thoát luôn hiện hữu bên cạnh mỗi chúng ta, nếu như chúng ta hành
trì, tu tập đúng theo lời Phật dạy, giữ gìn giới luật, áp dụng cho mình
một pháp môn tu phù hợp với căn cơ, trình độ thì chắc chắn chúng ta sẽ
có cuộc sống an vui, sớm đi đến lộ trình giác ngộ giải thoát.
Hà Nội, 14 tháng 11 năm Tân Mão
Trụ trì Tổ Đình Hồng Phúc Hòe Nhai - Đại Đức Thích Tâm Hoan